Thông điệp PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC
Populorum Progressio
Phaolô VI
26/03/1967
Thông điệp Phát triển các dân tộc của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.
gởi các giám mục linh mục, tu sĩ, giáo hữu và mọi người thiện chí
về vấn đề phát triển các dân tộc.
* Mở Đầu
Vấn đề xã hội ngày nay đã trở thành một vấn đề của thế giới
Giáo hội chú ý tới sự phát triển của các dân tộc
1. Sự phát triển của các dân tộc, nhất là những dân tộc đang cố
thoát khỏi cảnh ô nhục vì đói khát, cùng cực, bệnh tật, ngu dốt;
đang tìm cách tham gia nhiều hơn vào thành quả của văn minh;
đang đòi hỏi phải đánh giá đúng mức hơn những khả năng của con
người họ trong mọi hoạt dộng; đang quyết chí vươn mình tới một
sự nảy nở trọn vẹn: sự phát triển của các dân tộc đó được Giáo
hội Công giáo hằng tha thiết lưu ý.
Thực vậy, sau khi công đồng Vat II kết thúc, Giáo hội đã nhận thấy
rõ ràng và sâu xa hơn đòi hỏi của Phúc Âm là phải dấn thân phục
vụ con người, không những để giúp họ nhận rõ tất cả mọi kích
thước của vấn đề tối quan trọng này, mà còn để thuyết phục họ
phải cấp tốc hành động liên đới với mọi người trong khúc quanh
quyết định này của lịch sử nhân loại.
Giáo huấn của các Giáo Hoàng về vấn đề xã hội.
2. Các vị Giáo Hoàng trước chúng tôi như Đức Lêô XIII trong thông
điệp “RERUM NOVARUM”[1], Đức Piô XI trong thông điệp
“QUADRAGESIMO ANNO”[2], Gioan XXIII trong “MATER ET
MAGISTRA”[3] và “PACEM IN TERRIS”[4]. Khỏi nói đến Đức Piô XII
với các sứ điệp truyền thanh gửi toàn thế giới[5]– các vị giáo hoàng
đó đã chu toàn sứ mạng của mình là luôn luôn chiếu sáng Phúc
âm trên những vấn đề xã hội của thời đại các Ngài.
Một vấn đề mà mọi người dều biết.
3. Ngày nay, có một điều mà mọi người đều biết chắc là vấn đề xã
hội đã trở thành một vấn đề của thế giới. – Đức Gioan XXIII đã quả
quyết rõ ràng điều đó [6], và Công Đồng cũng nhắc lại trong Hiến
chế mục vụ “Về Giáo hội trong thế giới ngày nay”[7]. Giáo huấn này
hết sức quan trọng, vì thế phải cấp bách thi hành. Các dân tộc đói khổ đang hạch sách các dân tộc giầu sang. Giáo hội cũng động
lòng run rẩy khi nghe tiếng kêu phát ra tự niềm thao thức ấy, và
kêu gọi mọi người hãy vì yêu thương đáp lại tiếng gọi của người
anh em mình.
Chính Đức PhaoLô VI đã thấy trong các cuộc du hành.
4. Trước khi lên Ngôi giáo hoàng, trong hai chuyến đi Nam Mỹ năm
1960 và Phi Châu năm 1962, Chúng tôi đã được tiếp xúc trực tiếp
với những khó khăn ghê gớm đang bóp chặt hai lục địa đầy sức
sống và đầy hy vọng.
Sau khi được chọn làm giáo hoàng Chúng tôi cũng được thấy tận
mắt và như sờ tận tay, ở Thánh Địa cũng như ở Ấn độ, những nỗi
khổ cực mà những dân tộc có nền văn minh cổ kính ấy phải chịu
đựng để cố gắng mở mang xứ sở.
Lúc Công Đồng Vat.II sắp kết thúc, do Thiên Chúa sắp đặt, chúng
tôi đã được tới trụ sở liên hiệp quốc để biện hộ cho các dân tộc
nghèo trước hội trường rộng lớn đó.
Một chương trình gồm hai điểm: Công Bằng Và Hòa Bình
5. – Sau hết, vừa rồi đây để thể hiện nguyện vọng của Công Đồng
và cũng để cho mọi người thấy Tòa Thánh ủng hộ chính nghĩa của
các dân tộc đang cố gắng phát triển như thế nào, chúng tôi thấy có
bổn phận phải thiết lập thêm tại Giáo triều Roma một uỷ ban trực
thuộc giáo hoàng, có nhiệm vụ “làm cho toàn thể dân Chúa ý thức
trọn vẹn được vai trò mà thời đại hiện tại đang đòi hỏi ở mình, giúp
cho các dân tộc nghèo được thăng tiến: làm cho có sự công bằng
giữa các dân tộc; viện trợ cho các dân tộc kém mở mang, để họ có
thể tự phát triển”[8] . “Công bằng và hòa bình” là tên và là chương
trình của uỷ ban này. Chúng tôi nghĩ rằng chương trình này có thể
liên kết những người thiện chí với người công giáo, con cái chúng
tôi, và các Giáo hữu Kitô, anh em chúng tôi – vì thế hôm nay Chúng
tôi long trọng kêu gọi mọi người liên kết ý kiến và hành động để
phát triển toàn diện mỗi một con người và cùng phát triển mối liên
đới giữa mọi người.
+ PHẦN I
ĐỂ TIẾN TỚI MỘT SỰ PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
CỦA CON NGƯỜI
1. Những vấn đề hiện tạiKhát vọng của con người.
6. Khát vọng của con người hôm nay là có được chắc chắn của
ăn, sức khỏe, việc làm ổn định; là có được trách nhiệm nhiều hơn,
để khỏi bị áp bức, để thoát cảnh nhục nhã xâm phạm đến con
người; là được học hành hơn. Nói tóm lại là được LÀM được BIẾT,
được có nhiều hơn, để sống cho ra người hơn. Thế mà một số lớn
đang phải ở trong những điều kiện không bao giờ thể hiện được
khát vọng nói trên. Hơn nữa những dân tộc, mới thâu hồi được độc
lập, thấy không những cần có quyền tự do chính trị, mà còn cần cả
quyền phát triển tự lập về kinh tế và xã hội. Có như thế mới mong
làm cho dân chúng phát triển đầy đủ và dám nhận lấy chỗ đứng
của mình trong cộng đoàn các dân tộc.
Cơ cấu của thực dân để lại.
7. Để thể hiện công cuộc khó khăn và tối quan trọng ấy, những
phương tiện của thời xưa để lại như một di sản, tuy thiếu sót,
nhưng không phải là hoàn toàn không có. Thực ra nên nhìn nhận
các nước thực dân đã luôn luôn chỉ tìm lợi lộc, quyền hành và vinh
danh của họ. Vì thế khi ra đi họ để lại một tình trạng kinh tế què
quặt. Chẳng hạn, chỉ dựa vào nguyên một loại canh tác độc nhất.
Giá cả của hoa mầu nay lại lên xuống thất thường – Nếu phải nhìn
nhận một số tai hại và ác quả của chế độ thực dân, thì đồng thời
cũng phải ghi nhận công trạng của những thực dân, nhờ có khoa
học và kỹ thuật nơi nhiều miền xấu số những thành quả tốt – các
cơ sở để lại, tuy không hoàn bị, nhưng cũng có thể giúp chiến đấu
với ngu dốt bệnh tật, thiết lập giao thông thuận lợi và cải tiến đời
sống.
Hiện tình càng ngày càng chênh lệch.
8. Tuy phải nói và nhìn nhận điều đó, sự thật quá hiển nhiên vẫn
là sự trang bị ấy không đủ để đối phó với thực trạng kinh tế khó
khăn ngày nay. Cứ bỏ mặc theo đà tự nhiên của nó thì guồng máy
kinh tế hiện tại sẽ đem thế giới tới những mức sống chênh lệch
trầm trọng hơn, chứ đừng nói giảm bớt. Các nước giàu phát triển
nhanh, trong lúc các nước nghèo phát triển chậm. Sự chênh lệch
cứ tăng thêm; Có nước sản xuất thực phẩm thừa thãi, có nước lại
thiếu thốn một cách tàn nhẫn. Những nước này nếu có nguồn lợi
dư thừa nào, thì hoặc khi có khi không, hoặc không chắc gì đã có
thị trường để xuất cảng.Ý thức càng ngày càng cao.
9. Trong lúc đó, những vụ tranh chấp trên những vấn đề xã hội đã
lan rộng gần khắp thế giới. Những xáo trộn trước kia chỉ xâm nhập
các giai cấp nghèo trong các nước kỹ nghệ, giờ đây lan đến những
miền mà kinh tế gần như hoàn toàn dựa vào nông nghiệp. Người
nông dân cũng ý thức được cảnh bần cùng oan ức của họ[9]. Thêm
vào đó còn có những chênh lệch bất xứng và nhục nhã không
những trong việc hưởng thụ của cải, mà cả trong việc sử dụng
quyền hành. Ở nhiều miền, chỉ một thiểu số được ưu đãi sống trên
nhung lụa, còn lại tất cả dân chúng, nghèo nàn và tản mác, không
còn có thể có sáng kiến và trách nhiệm và lắm lúc phải ở trong một
hoàn cảnh sinh sống và làm việc bất xứng với phẩm giá con
người[10] .
Sự đụng độ giữa hai văn minh.
10. Hơn nữa nền văn minh cổ truyền và văn minh kỹ nghệ mới
đang đụng độ nhau, làm tan vỡ những cơ cấu không còn thích ứng
với nhu cầu của thời đại, do đó những người lớn tuổi nghĩ rằng
khuôn khổ ca nền văn minh cổ truyền, tuy càng ngày càng thu hẹp,
vẫn còn có thể là nơi nương tựa cho đời sống cá nhân cũng gia
đình, vì thế họ cố bám vào đó. Trái lại vì cho rằng đó chỉ là một
chướng ngại vật vô bổ, lớp trẻ tìm cách thoát ly để hăng say hướng
đến một hình thức mới của đời sống xã hội. Vì đụng độ giữa hai
thế hệ mà người ta đi đến chỗ phải lựa chọn bi đát như sau: hoặc
giữ lại cơ cấu và tư tưởng của cha ông, thì phải từ chối tiến bộ;
hoặc đón nhận kỹ thuật và văn minh ở ngoài đem đến thì phải bỏ
tập tục cổ truyền với những giá trị nhân bản của nó. Thực ra lắm
lúc chúng tôi thấy rằng nghị lực luân lý, tinh thần, và tôn giáo của
một số người lớn tuổi suy giảm và hơn nữa họ không chen chân
vào được trong thế giới mới này.
* Kết luận
11. Trong cơn khủng hoảng đó người ta rất dễ bị lôi cuốn theo
những lời hứa hẹn rất hấp dẫn, những giả dối của những kẻ tự
nhận là cứu tinh mới. Ai lại chẳng thấy những nguy hiểm do đó mà
phát xuất ra, như phản ứng bạo động của quần chúng, nổi loạn
hỗn độn, nghiêng về những ý thức hệ độc tài? Tầm quan trọng của
vấn đề đó, chắc ai cũng thấy.
2. Giáo hội và vấn đề phát triển.
Sự nghiệp của các vị thừa sai.12. – Giáo hội hằng trung thành với giáo huấn và gương mẫu của
Chúa Kitô, Đấng đã lấy việc loan báo Tin mừng cho người nghèo
khó, làm như dấu hiệu của sứ mệnh Ngài[11]. Vì thế, Giáo hội đem
Tin Mừng đến đâu thì cũng cố gắng giúp phát triển con người dân
tộc ở đó. Các thừa sai của Giáo hội trong lúc xây dựng Thánh
đường, cũng lo xây dựng dưỡng đường, bệnh viện, và trường học
đủ các cấp. Họ dạy cho người bản xứ phương thức khai thác một
cách đầy đủ những tài nguyên thiên nhiên của họ, và còn bảo vệ
họ khỏi lòng tham của ngoại nhân. Lẽ dĩ nhiên, các thừa sai cũng
là người, công việc của họ có thể thiếu sót: có những kẻ đem pha
trộn lối sống và lối suy tư của xứ sở họ vào việc loan báo Tin Mừng
của Chúa Kitô. Nhưng đồng thời họ cũng biết không những tôn
trọng mà còn làm phát triển các cơ cấu địa phương. Có nhiều vị
được kể vào số những chiến sĩ tiền phong phát động tiến bộ vật
chất và văn hóa. Chỉ cần nhắc lại gương của Cha Charles de
Foucauld cũng đủ. Ngài đã sống một đời yêu thương và đáng gọi
là “anh em của mọi người”, chính Ngài đã soạn thảo một cuốn tự
điển giá trị về tiếng Touareg. Đó là những kẻ đã được tình yêu của
Chúa Kitô thúc đẩy, họ đã đi tiền phong, nhưng ít ai biết đến. Bổn
phận của chúng ta là phải ca ngợi họ, cũng như phải ca ngợi những
người kế tiếp họ, theo gương họ, những kẻ ngày nay còn đang
phục vụ một cách đại độ và vô vị lợi, ở những nơi mà họ đến để
giảng Tin mừng.
Sứ mạng của Giáo hội.
13.Nhưng từ nay, sáng kiến của một người hay của nhiều người ở
từng địa phương không còn đủ nữa. Tình thế của thế giới hiện tại
đòi hỏi phải có một hành động chung, căn cứ trên một cái nhìn
sáng suốt bao gồm tất cả mọi vấn đề: kinh tế, xã hội, văn hóa và
tinh thần. Giáo hội hiểu biết rất nhiều về những vấn đề của nhân
loại, nhưng Giáo hội không can dự vào chuyện chính trị. Giáo hội
chỉ có nhằm một mục đích duy nhất là tiếp tục, dưới sự thúc đẩy
của Chúa Thánh Thần, công việc của Chúa kitô, Đấng đã đến trong
trần gian để làm chứng về sự thật, để cứu rỗi, chứ không phải để
lên án, để phục vụ chớ không phải để được phục vụ[12]. Giáo hội
được thiết lập là để xây dựng ngay tự đây nước trời ở trần gian,
chớ không phải để chiếm đoạt một quyền lực trần thế. Vì thế Giáo
hội quả quyết rõ ràng rằng: hai lãnh vực này khác biệt, cũng như
hai quyền lực, giáo quyền và chính quyền, đều là hai quyền tối
thượng, mỗi bên trong phạm vi của mình[13] .Nhưng Giáo hội lại sống giữa loài người, nên phải tìm hiểu những
dấu chỉ của thời đại và giải thích những dấu chỉ ấy theo ánh sáng
của phúc âm[14]. Những khát vọng đẹp đẽ nhất của con người cũng
là của Giáo hội, nên Giáo hội đau buồn khi thấy những khát vọng
ấy không được toại nguyện. Vì thế nên Giáo hội muốn giúp họ đạt
tới sự phát triển đầy đủ của họ, đề nghị với họ điều mà Giáo hội có
được, là một cái nhìn toàn diện về con người và nhân loại.
Tất cả con người và tất cả mọi người.
14. Sự phát triển không chỉ nhằm nguyên việc mở mang kinh tế.
Bởi vì sự phát triển đích thực là sự phát triển toàn diện, nghĩa là
thăng tiến tất cả mọi người và toàn thể con người. Một chuyên viên
lỗi lạc đã nói rất đúng về điều đó: “Chúng tôi không chấp nhận việc
tách rời kinh tế khỏi vấn đề của con người, việc tách rời vấn đề
phát triển khỏi nền văn minh liên hệ. Điều đáng kể đối với chúng ta
là con người, là mỗi người, là mỗi đoàn người cho đến toàn thể
nhân loại[15] .
Mỗi người phải phát triển.
15. Trong ý định của Thiên Chúa, mỗi người sinh ra là để được
phát triển, vì mỗi đời sống là một sứ mạng. Thực vậy, từ khi mới
sinh ra, mỗi người đã được những đức tính và năng khiếu như
những mầm mống phải vun trồng cho lớn lên: nhờ giáo dục của xã
hội hay cố gắng riêng của mình, những đức tính và năng khiếu lớn
mạnh để mỗi người có thể đạt tới đích mà Đấng tạo hóa đã chỉ
định cho mình. Vì con người có trí tuệ và tự do, nên con người có
trách nhiệm về sự phát triển, cũng như về sự cứu rỗi của mình.
Con người thường được những nhà giáo dục và những kẻ sống
quanh mình giúp đỡ, nhưng cũng đôi khi bị họ gây trở ngại. Tuy
ảnh hưởng đó thế nào đi nữa thì sự thành công hay thất bại của
mỗi người cũng là chính do mỗi người tạo nên. Mỗi người có thể
nhờ thông minh và ý chí, mà lớn lên trong đạo làm người, mà có
thêm giá trị, mà sống ra người hơn.
Bổn phận của mọi người.
16.Đàng khác, việc phát triển này không phải là việc để tùy ý. Cũng
như tất cả thụ tạo phải hướng về Đấng tạo hóa, thì vật thụ tạo có
lý trí cũng có nhiệm vụ phải tất nhiên hướng cuộc đời mình về
Thiên Chúa, là chân lý nguyên khởi và thiện hảo tối thượng. Vì thế, việc phát triển con người được coi là tột đỉnh nghĩa vụ của chúng
ta. Hơn thế nữa bản tính con người vốn đã điều hòa tốt đẹp, lại
được mỗi người bằng việc làm và ý thức trách nhiệm của mình,
kiện toàn mỗi ngày một hơn, bản tính ấy còn được quy hướng về
một phẩm giá cao trọng hơn. Tháp nhập vào Chúa Kitô là Đấng đã
làm cho ta được sống, con người còn tiến tới một sự phát triển
khác, một nền nhân bản siêu việt làm cho con người được sống
đầy đủ tột độ. Đó là mục đích tối hậu của việc phát triển con người.
Bổn phận của cộng đoàn.
17.Nhưng mỗi người còn là thành phần của xã hội: mỗi người
thuộc về toàn thể nhân loại. Vì thế không phải là người này hay
người kia mà là tất cả mọi người đều được gọi để thực hiện sự
phát triển toàn vẹn này. Các nền văn minh sinh ra, lớn lên rồi chết
đi nhưng cũng như những đợt sóng thủy triều đang lên, mỗi đợt
tiến thêm một chút vào bờ, nhân loại cũng tiến như thế trên đường
lịch sử. Là người được thừa hưởng của các thế hệ đã qua và đang
thụ hưởng công việc của người đương thời, chúng ta có những
nghĩa vụ đối với tất cả, và chúng ta không có quyền thờ ơ với
những người sẽ đến sau chúng ta để làm rộng lớn thêm đại gia
đình nhân loại. Tình liên đới đại đồng là một điều có thực. Nó đem
lại cho ta không những lợi ích mà còn bổn phận nữa.
Sắp đặt các giá trị.
18.Việc phát triển của mỗi người và của toàn thể nhân loại sẽ bị
tổn thương, nếu không đặt mỗi việc theo đúng giá trị quan trọng
của nó. Con người có quyền ước muốn những của cải cần thiết để
sống và có bổn phận phải làm việc để có những của cải đó: “Nếu
ai không muốn làm thì người ấy cũng đừng ăn” [16]. Nhưng việc tìm
kiếm của cải có thể đem con người đến lòng ham muốn quá độ,
ham muốn có nhiều của cải hơn, có nhiều quyền lực hơn. Tật tham
lam của mỗi người cũng như của các gia đình, các dân tộc có thể
làm thấm nhập vào người nghèo nhất cũng như người giàu nhất
và gây cho cả đôi bên một tinh thần duy vật bóp nghẹt tâm hồn.
Hai bộ mặt của sự phát triển.
19.Đối với một dân tộc cũng như đối với một cá nhân có thêm nhiều
của hơn không phải là mục đích tối hậu. Mỗi một sự thăng tiến đều
có hai mặt: nó cần thiết để con người được nên người hơn, nhưng
đồng thời nó cũng giam hãm con người một khi nó trở thành giá trị
cao cả thật, không còn cho thấy giá trị nào khác. Lúc đó, lòng người trở nên chai đá và tinh thần khép kín lại, con người không còn đến
với nhau vì tình nghĩa, nhưng chỉ vì lợi lộc. Lợi lộc để làm cho con
người chống đối nhau và chia rẽ nhau. Vì thế nếu chỉ tìm của cải
mà thôi thì không những sẽ làm cản trở cho sự phát triển của con
người, mà còn phản lại sự cao cả bẩm sinh của con người. Đối với
một quốc gia cũng như đối với một con người, tội tham lam là một
hình thức lộ liễu nhất của tình trạng luân lý thấp kém.
Tiến tới một điều kiện xứng với con người hơn.
20. Nếu để xúc tiến việc phát triển, cần phải có chuyên viên mỗi
ngày mỗi nhiều, thì càng cần phải có nhiều hơn nữa những nhà
hiền triết để suy nghĩ sâu xa, để tìm kiếm một thuyết nhân bản mới.
Nhờ đó con người hiện đại như tìm lại được chính mình vì thấm
nhuần những giá trị cao quý của tình yêu, tình bạn, cầu nguyện và
chiêm ngắm[17] Có thế, mới thực hiện được trọn vẹn sự phát triển
đích thực. Một sự phát triển đích thực đối với mỗi người cũng như
đối với mọi người, là đi từ những điều kiện ít xứng với con người
đến những điều kiện xứng với con người hơn.
Lý tưởng phải theo đuổi.
21.Sống trong những điều kiện ít xứng với con người: trước tiên
có nghĩa là những kẻ sống trong hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất
như thiếu ăn thiếu mặc, thiếu thốn về tinh thần như sa đọa ích kỷ
quá độ.
Sống trong những điều kiện ít xứng với con người: còn là những
kẻ bị cơ cấu của xã hội đè nén: những cơ cấu do sự lạm dụng sở
hữu, lạm dụng quyền hành, bóc lột nhân công cũng như buôn bán
gian lận tạo nên.
Xứng với con người hơn, có nghĩa làm cho con người từ nghèo
đói đến no đủ, loại trừ các tệ đoan xã hội, mở rộng được kiến thức,
hấp thụ được văn hóa. Xứng với con người hơn: còn có nghĩa là
kính trọng nhân phẩm của người khác hơn, hướng về một tinh thần
nghèo khó[18], mưu cầu ích chung, quyết tâm hòa bình. Xứng hợp
với con người hơn còn có nghĩa là con người nhìn nhận những giá
trị tối cao, và nhìn nhận Thiên Chúa là nguồn gốc và là cùng đích
của mọi giá trị.
Xứng hợp với con người hơn, sau hết và hơn hết, là có nghĩa rằng:
con người thành tâm đón nhận đức tin, tức là đón nhận ân huệ của
Thiên Chúa, và hòa hợp các tâm hồn trong tình thương yêu của
Đức Kitô, Đấng đã gọi chúng ta để được làm con, tham gia vào sự
sống của Thiên Chúa hằng sống, Cha của mọi người.3. Công cuộc phải thể hiện
Của cải là của mọi người.
22. ở ngay trang đầu của Kinh Thánh, chúng tôi đọc được lời
này: “Hãy lan tràn khắp mặt đất và hãy khắc phục trái đất”[19]. Lời
đó dạy chúng ta rằng tất cả vũ trụ này được tạo dựng nên cho con
người; con người có bổn phận phải dùng tài năng của mình để
tăng giá trị của vũ trụ, và dùng việc làm của mình mà hoàn thành
vũ trụ để hưởng dụng. Trái đất đã được tạo dựng nên để cung cấp
phương tiện sinh sống và khí cụ tiến bộ cho mỗi người, thì mỗi
người có quyền tìm thấy ở trong đó những điều cần thiết cho mình.
Công đồng cũng đã nhắc lại điều đó rằng: “Thiên Chúa đã tạo dựng
trái đất và mọi vật trên đó là để mọi người và mọi dân tộc sử dụng.
Vì thế của cải trần gian phải tràn đầy đồng đều cho mọi người, theo
luật công bằng là một luật đi liền với luật Bác ái”[20] .
Định luật này phải được ưu tiên trên mọi quyền hạn khác, bất cứ
là quyền nào kể cả quyền tư hữu và quyền tự do buôn bán. Các
quyền khác không những không được cản trở, mà trái lại phải giúp
định luật này thể hiện dễ dàng. Vì đó, phải hiểu rằng bổn phận xã
hội quan trọng và cấp bách nhất: là phải quy hướng các quyền nói
trên về với cùng đích tiên khởi của chúng.
Quyền tư hữu.
23.“Kẻ có của cải trên đời, nếu thấy anh em mình phải túng bấn,
mà đi khóa lòng dạ lại không thương nó, thì lòng mến Thiên Chúa
ở trong kẻ ấy thế nào?”[21] .
Mỗi người đều biết các giáo phụ đã nói mạnh mẽ như thế nào về
bổn phận phải có của người giàu đối với những kẻ đang lâm cảnh
túng thiếu. Thánh Ambrosio nói: “Anh cho người nghèo, nhưng đó
không phải anh lấy của anh mà cho, mà anh chỉ trả lại cho họ của
cải của họ. Bởi vì của cải là để cho mọi người dùng chung, thì anh
đã dành lấy một mình cho anh. Trái đất này là của mọi người, chứ
không phải của người giàu” [22] Những lời đó có nghĩa là quyền tư
hữu không cho một ai có quyền tuyệt đối và vô điều kiện. Không ai
có quyền dành riêng, cho một mình mình, của dư thừa khi có
những người khác đang thiếu những gì cần thiết để sống. Nói tóm
lại, theo học thuyết truyền thống của các giáo phụ, và các nhà thần
học danh tiếng thì không bao giờ được sử dụng quyền tư hữu khi
thiệt hại đến ích lợi chung. Nếu có sự tranh chấp giữa quyền tư
nhân đã được xác nhận và đòi hỏi quan trọng của cộng đoàn, thì chính phủ phải lo giải quyết với sự tham gia tích cực của các tư
nhân và các tập thể.[23]
Sử dụng lợi tức.
24.Vậy lắm lúc vì ích chung phải truất hữu. Chẳng hạn như khi sở
hữu làm cản trở sự thịnh vượng chung vì rộng lớn quá, không khai
thác đủ hoặc không khai thác được và gây khổ cực cho dân chúng
hoặc làm thiệt hại lớn cho quốc gia. Công đồng Vat.II đã quả quyết
rõ ràng điều đó và còn nhấn mạnh rằng: Không phải ai muốn sử
dụng lợi tức của mình thế nào thì cứ sử dụng, và phải cấm đoán
những vụ đầu cơ ích kỷ. Có những công dân có lợi tức dư thừa
nhờ tài nguyên và sinh hoạt quốc gia, họ đem chuyển một phần
lớn tài sản đó ra ngoại quốc để mình sử dụng riêng, mà không để
ý tới thiệt hại tỏ tường của xứ sở[24] .
Kỹ nghệ hóa.
25. Việc kỹ nghệ hóa là một điều cần thiết cho sự phát triển kinh tế
và cho sự tiến bộ của con người[25]. Kỹ nghệ vừa là dấu hiệu vừa
là động cơ của sự phát triển. Con người nhờ xử dụng trí thông
minh của mình và chịu khó làm việc, đã khám phá được lần hồi
những định luật bí ẩn của vũ trụ và làm cho kho tàng phong phú
của nó trở nên thêm hữu dụng. Do đó con người vừa điều hòa
được nếp sống của mình vừa mở mang thêm óc tìm tòi và phát
minh. Con người cũng nhờ đó trở nên can đảm, dám mạo hiểm,
dám kinh doanh, dám có sáng kiến, dám lãnh trách nhiệm.
Chủ nghĩa tư bản.
26. Nhưng từ những điều kiện mới mẻ ấy của xã hội, không biết
sao lại phát sinh ra một chủ trương lấy lợi làm động cơ căn bản để
phát triển, lấy tự do cạnh tranh làm định luật tối cao của kinh tế, lấy
việc nắm giữ riêng những phương tiện sản xuất làm quyền tuyệt
đối, bất chấp giới hạn và nghĩa vụ xã hội liên hệ. Thứ “tự do kinh
tế” phóng túng này đã dẫn đưa tới một lối độc tài mà Đức Piô XI
đã tố cáo đúng lý như cha đẻ của “đế quốc tiền bạc quốc tế“[26] .
Những thứ lạm dụng kinh tế như thế không bao giờ bài xích cho
đủ, bởi vì, còn phải long trọng lập lại một lần nữa, kinh tế là để
phục vụ con người[27]. Quả thực có một hình thức tư bản nào đó
đã phát sinh ra bấy nhiêu đau thương, bất công, và tranh chấp giữa
anh em gây nên thiệt hại lâu dài. Nhưng thực là sai lầm nếu đem
gán ghép cho chính việc kỹ nghệ hóa những tệ hại đó, là những tệ
hại của một chủ nghĩa sai lạc cùng phát triển một lúc với việc kỹ nghệ hóa mà thôi. Cần phải công minh nhìn nhận sự góp phần cần
thiết của sự tổ chức việc làm cách khoa học và những tiến bộ của
kỹ thuật vào công cuộc phát triển.
Giá trị của việc làm.
27. Cũng vậy, mặc dầu đôi lúc người ta đề cao quá đáng giá trị của
việc làm, nhưng không phải vì thế mà không nhìn nhận rằng chính
Thiên Chúa đã truyền phải làm việc và chúc lành cho công việc
làm. Bởi vì đã được tạo dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa “con
người phải cộng tác với Đấng Tạo hóa để hoàn thành công cuộc
tạo dựng và cũng để ghi dấu thiêng liêng của mình trên trái đất”[28] .
Thiên Chúa đã ban cho con người trí thông minh, óc tưởng tượng,
và giác quan tức là đã cho con người phương tiện để như hoàn tất
công cuộc của Ngài, bởi vì mỗi một người khi làm việc, dù là người
nghệ sĩ hay thủ công, chủ nhân, công nhân, hay nông dân, đều làm
công việc tạo dựng. Khi nghiêng mình làm việc trên một chất liệu
rắn rỏi, người lao động in vào đó dấu riêng của mình, đồng thời
cho mình thêm tính kiên nhẫn, tài khéo léo và óc sáng tạo. Hơn thế
nữa, khi làm việc, chung đụng với nhau, cùng chia sẻ hy vọng, đau
khổ, hoài bão và vui thú. Do đó việc làm nối kết các ý chí, kéo gần
các tâm trí, hàn gắn các tâm hồn. Nhờ làm việc mà con người
khám phá ra mình là anh em với nhau[29] .
Việc làm dị nghĩa.
28. Việc làm đã hẳn là dị nghĩa, vì nó hứa hẹn tiền tài, lạc thú, thể
lực, lôi kéo lớp người này vào ích kỷ, lớp người kia vào nổi loạn.
Tuy nhiên nó cũng làm phát huy lương tâm nghề nghiệp, ý thức
bổn phận, và tình thương đối với người bên cạnh. Ngày nay việc
làm khoa học và có tổ chức hơn, nhưng cũng vì thế mà có thể trở
nên vô nhân đạo đối với người lao động: Người nô lệ đã trở thành
như nô lệ của việc làm. Việc làm chỉ có thể nói được là của con
người, khi con người làm việc một cách thông minh và tự do[30] .
Đức Gioan XIII đã khẩn khoản nhắc nhở rằng phải cấp bách trả lại
nhân phẩm cho người lao động và phải làm cho họ tham gia thực
sự vào công cuộc chung: “Phải làm thế nào để xí nghiệp trở thành
một cộng đoàn giữa người với người trong các mối liên lạc, việc
làm, hoàn cảnh của mỗi người trong xí nghiệp”.
Sau hết đối với người giáo hữu, việc làm còn có sứ mạng cộng tác
vào công cuộc tạo dựng một thế giới siêu nhiên[31]. Thế giới đó phải
hoàn thành cho tới ngày mà tất cả chúng ta làm thành con người hoàn hảo mà Thánh Phaolô nói: “Con người thể hiện được sự viên
mãn của Đức Kitô”[32] .
Hành động cấp bách.
29. Phải hành động gấp, bởi vì số người đau khổ còn quá nhiều và
khoảng cách giữa người tiến bộ và những người không tiến bộ
ngày càng lớn. Hơn nữa công cuộc phải làm cần phải được xúc
tiến một cách hòa hợp, nếu không sẽ mất thăng bằng cần thiết.
Một cuộc cải cách điền địa thiếu sửa soạn chẳng hạn sẽ không đạt
được kết quả. Một công cuộc kỹ nghệ hóa vội vàng có thể làm rối
loạn các cơ cấu còn cần thiết, và gây nên những khổ cực trong xã
hội. Đó lại là thoái hóa đối với văn minh nhân loại.
Dùng vũ lực.
30.Quả đang có những tình trạng bất công kêu thấu tận trời. Thực
vậy, khi dân chúng thiếu cả những điều cần thiết để sống, phải lệ
thuộc vào người khác đến độ không còn quyền có sáng kiến và
trách nhiệm, không còn tiến triển về mặt văn hóa và tham gia được
vào đời sống xã hội và chính trị, thì người ta dễ dàng bị lôi cuốn
muốn dùng vũ lực để chấm dứt cảnh nhục mạ nhân phẩm con
người như thế.
Nổi loạn và cách mạng.
31. Nhưng, ngoại trừ trường hợp để đánh đổ một chế độ độc tài rõ
rệt và kéo dài đã quá lâu làm thương tổn nặng nề đến những quyền
căn bản của con người và nguy hại lớn cho lợi ích quốc gia, những
cuộc nổi loạn và cách mạng làm cho thêm bất công, đem đến thêm
chênh lệch, và gây thêm tàn phá. Điều đó ai cũng biết – Như thế,
người ta đâu có quyền diệt trừ một sự dữ trước mắt bằng một
đường lối có thể đem đến một sự dữ tàn khốc hơn.
Cải cách.
32. Chúng tôi muốn câu nói của chúng tôi được hiểu đúng như thế
này là phải can đảm đối phó với hoàn cảnh hiện tại và phải diệt trừ
cho được những bất công của nó. Sự phát triển đòi hỏi những thay
đổi táo bạo, những đổi mới sâu xa. Phải khởi công ngay những cải
cách mà không trì hoãn: Mỗi người phải đại độ lãnh lấy phần của
mình, nhất là những người nhờ giáo dục, nhờ địa vị, nhờ quyền
hành, có nhiều khả năng hành động. Ước gì, để làm gương họ lấy
chính tài sản của họ để thể hiện điều đó, như nhiều Giám Mục, anh
em của chúng tôi đã làm.[33] Có như thế họ mới đáp ứng sự chờ đợi của loài người và trung thành với Thánh Thần Chúa, bởi
vì “Chính Phúc âm đã làm dạy lên và đang làm dạy lên, như men,
trong lòng người, một đòi hỏi nhân phẩm không thể đè bẹp
được”. [34]
Chương trình và kế hoạch.
33.Thực ra sáng kiến cá nhân và luật cạnh tranh mà thôi không
làm cho việc phát triển được thành công mỹ mãn. Bởi vì không
được phép liều lĩnh để cho tài sản và quyền lực của kẻ giầu gia
tăng, để cho sự cùng cực của người nghèo thêm rõ rệt và để cho
ách nô lệ của những kẻ bị áp bức thêm nặng nề. Vì thế phải có
chương trình để “nâng đỡ, khuyến khích phối hiệp, thay thế và bổ
khuyết “[35] hoạt động của cá nhân cũng như của các tập thể trung
gian. Chính phủ có quyền quyết định và bắt thể hiện những mục
tiêu phải theo đuổi, những đích phải đạt, những phương tiện phải
dùng để đi tới. Chính phủ cũng có bổn phận phải thúc đẩy nghị lực
của tất cả những ai có trách nhiệm về công cuộc chung này. Nhưng
chính phủ cũng phải lưu tâm để các tư nhân và các tập thể trung
gian có thể giúp sáng kiến vào đó. Có thế thì mới tránh được nạn
tập sản hóa tuyệt đối và kế hoạch hóa độc đoán, xâm phạm đến
tự do và sử dụng các quyền căn bản của con người.
Phục vụ con người.
34. Lập nên chương trình là để gia tăng sản xuất. Do đó một
chương trình chỉ có lý do để tồn tại là khi phục vụ con người. Như
thế chương trình là để làm giảm bớt chênh lệch, loại bỏ kỳ thị, giải
thoát con người khỏi xiềng xích nô lệ, làm cho con người có thể tự
mình cải tiến đời sống vật chất của mình, phát huy đời sống tinh
thần và làm nảy nở đời sống siêu nhiên.
Khi nói “phát triển” là chúng tôi muốn nói tới sự quan tâm đến tiến
bộ xã hội cũng bằng tiến bộ kinh tế. Bởi vì gia tăng tài sản chung
cũng đủ để có sự phân phối công minh. kỹ thuật tiến bộ cũng không
đủ để quả địa cầu này trở nên nhân đạo hơn, dễ cư ngụ hơn. Vì
thế mà những nước đang mở mang phải chú ý tới những sai lầm
của những kẻ đi trước, để tránh được nguy hiểm trong lãnh vực
này. Nếu những ngày gần đây chế dộ chuyên viên trị thịnh hành,
thì rồi cũng lại phát sinh ra những hiểm họa khủng khiếp không
kém những hiểm họa do chủ nghĩa kinh tế tự do trước kia. Kinh tế
và kỹ thuật không có nghĩa gì nếu không hướng về ích lợi con
người để phục vụ. Và con người chỉ thực sự là con người trong
mức độ mình làm chủ được hành động của mình và hiểu được tầm quan trọng của nó để tự mình làm cho mình phát triển. Sự phát
triển này cũng phải phù hợp với bản tính mà Đấng Tạo hóa tối cao
đã phú cho, gồm có những khả năng và đòi hỏi mà mình tự đón
nhận.
Chống mù chữ.
35.Người ta còn có thể quả quyết rằng sự phát triển kinh tế tùy
thuộc nhiều nhất ở sự tiến bộ về mặt xã hội. Do đó giải quyết nạn
mù chữ là mục tiêu thứ nhất của một chương trình phát triển. Thiếu
học cũng làm suy nhược quả không kém thiếu ăn: Một người mù
chữ là một trí óc không được nuôi dưỡng đủ. Biết đọc, biết viết,
biết được một nghề là có được lòng tự tin và khám phá được rằng
mình có thể cùng tiến với người khác. Như chúng tôi đã nói trong
điệp văn gởi Đại hội UNESCO năm 1965 ở Teheran, biết chữ, đối
với con người, là một yếu tố thứ nhất và quan hệ nhất để đi vào
đời, cũng như để thêm giầu có riêng, còn đối với xã hội, nó là một
dụng cụ đặc biệt để tiến bộ về kinh tế và để phát triển[36]. Do dó
chúng tôi rất hoan hỷ khi thấy đã có nhiều công cuộc được thực
hiện do các sáng kiến cá nhân, các cơ quan công quyền cũng như
các tổ chức quốc tế trong địa hạt này: đó là những kẻ góp công thứ
nhất vào sự phát triển, bởi vì họ làm cho con người có khả năng
tự sức mình theo đuổi sự phát triển.
Gia đình.
36. Nhưng con người chỉ đầy đủ là con người trong môi trường xã
hội của mình. Trong đó, gia đình đóng một vai trò chính yếu. Vai
trò này có thể là quá đáng, khi ở một vài nơi và một vài lúc, nó đã
làm tổn thương đến những quyền tự do căn bản của con người –
những khung cảnh xã hội cũ của các nước chậm tiến tuy lắm lúc
quá cứng rắn và kém tổ chức, nhưng vẫn còn cần thiết một thời
nữa, nếu biết nới rộng dần dần sự kiềm chế quá đáng của nó.
Nhưng gia đình theo bản chất tự nhiên của nó nghĩa là một vợ một
chồng, và vĩnh viễn, đã được Thiên Chúa dự liệu[37] và đạo Kitô
giáo thánh hóa, để làm nơi gặp gỡ của nhiều thế hệ, để giúp nhau
ngày thêm khôn ngoan từng trải và dung hòa quyền lợi của con
người với những đòi buộc của đời sống xã hội. Gia đình đó chính
là nền tảng của xã hội[38] .
Vấn đề sinh sản.
37. Không nên chối rằng lắm lúc dân số tăng lên mau quá gây thêm
khó khăn cho việc phát triển: Vì dân số tăng nhanh hơn tài nguyên hiện có, nên người ta có cảm tưởng không còn lối thoát. Lúc đó,
người ta dễ chiều theo ý kiến giảm bớt việc tăng gia sinh sản bằng
những biện pháp cực đoan.
Chắc chắn là các chính phủ, trong phạm vi quyền hạn của mình,
có thể can thiệp, bằng cách giáo dục dân chúng về vấn đề ấy và
dùng những biện pháp thích ứng, miễn là những biện pháp đó phù
hợp với đòi buộc của luân lý và tuyệt đối kính trọng sự tự do chính
đáng của vợ chồng. Bởi vì nếu quyền kết hôn và sinh sản là những
quyền cố định mà bị tước đoạt thì còn gì là phẩm giá con người.
Sau hết việc định đoạt số con phải có là trách nhiệm của cha mẹ,
một khi đã thấu triệt vấn đề. Trách nhiệm ấy họ phải nhận lấy trước
Thiên Chúa, đối với nhau, đối với những đứa con đã được sinh ra
và đối với cộng đoàn liên hệ với họ theo đúng đòi buộc của lương
tâm đã được đào tạo trong lề luật Chúa giải thích một cách trung
thực, và đã được mạnh mẽ nhờ cậy tin ở Chúa[39] .
Các tổ chức nghề nghiệp.
38.con người phát triển, trước nhất là nhờ có gia đình nơi sinh
sống, và thường cũng có các tổ chức nghề nghiệp giúp đỡ. Các tổ
chức này được lập ra để mưu cầu quyền lợi cho các hội viên. Tuy
nhiên vẫn có trách nhiệm lớn đối với vấn đề giáo dục, một công
cuộc mà các tổ chức đó có thể làm rất nhiều để giúp cho các hội
viên ý thức được quyền lợi chung và trách nhiệm của mỗi người
đối với quyền lợi đó.
Chủ thuyết khác nhau
39. Mỗi một hoạt động xã hội đều có hàm chứa một chủ thuyết.
Người giáo hữu Kitô không thể chấp nhận một chủ thuyết dựa trên
triết lý duy vật và vô thần, không tôn trọng hướng tôn giáo của cuộc
đời là hướng về cùng đích tối hậu đời đời, cũng như không tôn
trọng tự do và phẩm giá của con người. Tuy nhiên, miễn là không
tổn thương đến những giá trị đó, có thể chấp nhận nhiều tổ chức
nghề nghiệp và nghiệp đoàn khác nhau. Đứng về một vài phương
diện, điều đó lại có lợi, miễn là bảo đảm được tự do và khuyến
khích sự thi đua. Và chúng tôi hoan hỷ ca ngợi những ai đang cố
gắng hy sinh phục vụ anh em mình một cách vô vị lợi.
Phát triển văn hóa.
40.Ngoài những tổ chức nghề nghiệp ấy, còn có những cơ cấu
đang hoạt động, để góp phần không kém vào việc phát triển. Bằng
những lời trịnh trọng Công đồng tuyên bố: “Tương lai của thế giới
sẽ lâm nguy, nếu thời đại chúng ta không biết tạo nên cho mình những người hiền”. Công đồng còn thêm: “Có nhiều quốc gia
nghèo về vật chất, nhưng giàu về tinh thần có thể giúp ích cho rất
nhiều nước khác về phương diện ấy”[40]. Giàu hay nghèo, mỗi xứ
sở đều có một nền văn minh do tiền nhân để lại: đó là những cơ
cấu cần có cho đời sống vật chất và những phát biểu cao thượng
của đời sống tinh thần như nghệ thuật, tri thức và tôn giáo. Nếu
những sinh hoạt tinh thấn này có hàm chứa những giá trị nhân bản
đích thực, thì là một lầm lẫn lớn, khi bỏ nó để chỉ tìm những thể
hiện vật chất kia. Một dân tộc mà làm như thế là bỏ mất cái gì quý
giá nhất của mình và như thế là sống mà bỏ mất lý do của cuộc
sống. Lời dạy dỗ sau đây của Đức Kitô cũng áp dụng cho các dân
tộc: “Có cả thế giới ích gì cho con người, nếu phải mất sự sống của
mình”[41] .
Sự cám dỗ vật chất
41.Các dân tộc nghèo không bao giờ đề phòng cho đủ để chống
với sự cám dỗ vật chất do các dân tộc giàu đem đến. Phơi bày
những thành công mỹ mãn của kỹ thuật và văn hóa, các dân tộc
giàu, đồng thời cũng nêu cao nếp sống sinh hoạt kinh tế chỉ nhằm
theo đuổi sự thịnh vượng vật chất. Sự thực vật chất tự nó không
ngăn cản sinh hoạt tinh thần. Mà trái lại, tinh thần, “ít phải lo lắng
về vật chất, có thể dễ dàng thờ phượng và chiêm ngắm Đấng Tạo
Hóa hơn”[42]. Nền văn minh hiện đại thường có thể làm cho khó gần
Thiên Chúa hơn. Điều đó không tự tại bản chất của nền văn minh,
mà bởi vì tại nền văn minh quá đi sâu vào vật chất[43]. Các dân tộc
kém mở mang, cần phải lựa chọn trong những điều người ta đem
đến cho mình: phải biết cân nhắc và loại bỏ những giá trị giả dối,
chỉ làm hạ thấp giá trị cao đẹp của con người; nhận lấy giá trị tốt
lành và hữu dụng để làm phát triển thêm cùng một lúc với những
tinh hoa của mình theo tài trí riêng của mỗi dân tộc[44] .
Kết luận
42. Đó là một nền nhân bản hoàn hảo phải cổ võ. Nhân bản hoàn
hảo là gì, nếu không phải là phát triển toàn diện con người và tất
cả mọi người? Một nền nhân bản đóng kín không chấp nhận những
giá trị tinh thần cũng như không chấp nhận Thiên Chúa là nguồn
gốc những giá trị ấy, nền nhân bản đó có thể chỉ thắng thế ngoài
mặt. Đã hẳn là con người có thể tổ chức thế giới này không có
Thiên Chúa, nhưng loại bỏ Thiên Chúa ra thì rốt cuộc con người
chỉ có thể tổ chức để chống lại con người. Một nền nhân bản không
đếm xỉa gì tới những giá trị khác, là một nền nhân bản phi nhân[45] . Vậy một nền nhân bản chân thực chỉ có thể là một nền nhân bản
hướng về Thiên Chúa Chí Tôn, khi nhìn nhận bổn phận mà chúng
ta được mời gọi thể hiện là bổn phận đem lại cho đời sống con
người ý nghĩa chính xác. Không đời nào con người lại là tiêu chuẩn
cuối cùng cho con người. Con người chỉ thể hiện được con người
cho trọn vẹn một khi con người tự vượt lên khỏi mình, đúng như
một lời rất chí lý của Pascal: “Con người vượt quá trăm ngàn lần
con người”[46] .
+ PHẦN II
Để tiến tới sự phát triển liên đới toàn thể nhân loại
Nhập đề
43.Sự phát triển toàn diện của con người phải đi liền với sự phát
triển của nhân loại. Chúng tôi đã nói điều đó ở Bombay: “Con người
phải gặp con người, các quốc gia phải gặp nhau như anh em, chị
em, như con cái của Thiên Chúa. Nhờ hiểu biết nhau, thân thiện
nhau, và cảm thông với nhau một cách linh thiêng, chúng ta cũng
phải bắt đầu hoạt động chung với nhau để xây dựng tương lai
chung của nhân loại”. [47]
Chúng tôi cũng đã đề nghị nên tìm những phương thức tổ chức và
hợp tác hữu hiệu, để chung góp những tài nguyên sẵn có, và để
thiết lập những liên hệ thực giữa các dân tộc.
Tình huynh đệ giữa các dân tộc.
44. Đó trước tiên là bổn phận của các nước giàu có. Bổn phận này
bắt nguồn từ tình huynh tự nhiên và siêu nhiên gồm ba khía cạnh:
Trước tiên, bổn phận liên đới, là các nước giàu phải giúp đỡ các
nước kém mở mang, thứ đến, bổn phận công bằng xã hội, là phải
cải thiện mối quan hệ thương mại giữa các nước mạnh và các
nước yếu. Sau hết bổn phận bác ái đại đồng là phải cố gắng xây
dựng một thế giới nhân đạo hơn cho mọi người, trong đó ai cũng
phải cho, ai cũng được nhận, mà sự phát triển của nước này không
cản trở sự phát triển của nước kia. Vấn đề này thật quan trọng bởi
vì liên hệ tới tương lai văn minh nhân loại.
Chống nạn đói
45.Thánh Giacôbê nói, “Nếu có người anh em hay chị em không
có áo mặc, không có cơm ăn, mà một người trong anh em chỉ nói
với họ rằng: chúc anh em về bình an, hay cố mặc cho ấm, cố ăn
cho no, rồi không cho họ gì cần cho thân xác họ, thì lời nói đó nào có ích gì?”[48]. Ngày nay không ai mà không biết rằng: trên nhiều
lục địa, biết bao người đang bị nạn đói hành hạ; biết bao trẻ em
thiếu ăn, đến nỗi một phần lớn phải chết lúc còn nhỏ tuổi; bao nhiêu
người khác không phát triển được về vật chất lẫn tinh thần cũng vì
đói. Cũng vì vậy mà dân chúng trong bao nhiêu miền rộng lớn đang
lâm vào cảnh tuyệt vọng thê thảm.
1. Giúp đỡ các nước nghèo
Hôm nay:
46.Nhiều lời kêu gọi cứu trợ đã vang lên thống thiết. Lời kêu gọi
của Đức Gioan XXIII đã được nhiệt liệt đón tiếp[49]. Chúng tôi cũng
đã lặp lại lời kêu gọi đó trong Thông điệp Giáng Sinh 1963[50], và
vừa rồi đây năm 1966 để cứu trợ Ấn Độ[51]. Chiến dịch chống nạn
đói do “Tổ Chức Lương Nông Quốc Tế” khởi xướng và Tòa Thánh
khuyến khích đã được hưởng ứng một cách rộng rãi. Tổ chức
Caritas quốc tế của Chúng tôi cũng đang hoạt động khắp nơi. Và
nhiều Tín hữu Công giáo, do sự thôi thúc của các Giám Mục, anh
em chúng tôi, hy sinh không tiếc gì cả, để giúp đỡ những ai đang
quẫn bách, tăng thêm số người anh em thân cận.
Ngày mai:
47. Nhưng những công cuộc cứu trợ đó, cũng như những việc bỏ
vốn tư và công, viện trợ và cho vay, đều không đủ. Bởi vì không
phải chỉ có chuyện thắng nạn đói và giảm bớt nạn khổ: chống bần
cùng, tuy cấp bách và cần thiết, nhưng không đủ. Vấn đề chính là
thiết lập một xã hội trong đó, mỗi người, không phân biệt nòi giống,
tôn giáo, quốc tịch, có thể sống một cuộc sống đầy đủ là con người
– Con người không còn bị con người áp bức, không còn bị thiên
nhiên chưa được chế ngự hành hạ. Chúng tôi muốn nói tới một xã
hội, trong đó tự do không còn là một danh từ trống rỗng và người
nghèo như Ladarô cũng được ngồi vào một bàn ăn với người
giàu[52]. Điều này đòi hỏi ở người giàu nhiều đại độ, nhiều hy sinh
và một cố gắng không ngừng. Mỗi người phải tự xét lương tâm.
Lương tâm như đang nói với thời đại chúng ta bằng một âm thanh
mới. Mỗi người có sẵn sàng bỏ tiền của để nâng đỡ các cơ cấu và
tổ chức nhằm giúp đỡ người nghèo không? Mỗi người có sẵn sàng
đóng thêm thuế để chính phủ có thể gia tăng nỗ lực phát triển
không? Mỗi người có sẵn sàng mua đắt thêm những hàng hóa
nhập cảng để người làm ra hàng hóa ấy được hưởng lương tương
xứng không? Mỗi người có sẵn sàng rời bỏ quê hương, khi cần và
khi tuổi còn cường tráng, để giúp phát triển ở các nước kém mở
mang không?Bổn phận liên đới
48. Bởi vì bổn phận liên đới giữa người với người cũng là bổn phận
liên đới giữa các dân tộc với các dân tộc, “nên các dân tộc… đã
mở mang có bổn phận rất khẩn cấp là phải giúp các dân tộc đang
mở mang”[53] . Tài liệu Công đồng đó cần phải được đem áp dụng.
Bất cứ dân tộc nào quả cũng có quyền hưởng dụng ưu tiên tài
nguyên thiên nhiên cũng như của cải do chính mình làm ra. Nhưng
không một dân tộc nào được phép giữ lấy tài sản cho một mình
mình hưởng dụng. Mỗi dân tộc đều phải sản xuất nhiều hơn và tốt
hơn để cho mọi người dân trong nước có được một mức sống
xứng với phẩm giá con người và đồng thời để giúp nhân loại cùng
phát triển. Khi còn có nhiều nước kém mở mang mỗi ngày một đói
khổ, thì phải coi là chuyện thường, nếu một nước giàu đem
nhường một phần tài sản của mình để giúp các nước đó. Cũng là
chuyện thường khi một nước tiên tiến đào tạo giáo sư, kỹ sư,
chuyên viên, bác học để cho họ đem hiểu biết và kinh nghiệm
phụng sự các nước đó.
Phần dư thừa.
49.Cũng cần nhắc lại rằng: phần dư thừa của các nước giàu phải
đem giúp các nước nghèo. Giới luật, ngày xưa bắt phải giúp đỡ
người thân cận, ngày nay bắt phải giúp đỡ tất cả mọi người nghèo
trên thế giới. Làm như thế, kẻ giàu là người trước tiên được lợi.
Trái lại nếu cứ keo kiệt mãi thì sẽ bị Thiên Chúa nguyền rủa và
người nghèo phẫn nộ: hậu quả sẽ khôn lường. Các nước hiện nay
giàu có phủ phê mà chỉ lo cho quyền lợi của mình, sẽ làm tổn
thương đến những giá trị cao quý nhất của mình, nếu muốn thâu
hoạch thêm nhiều của cải là đóng một vai trò trọng đại và chính
đáng hơn (trong cộng đồng các dân tộc).
Có thể đem áp dụng cho các nước đó dụ ngôn về người phú hộ
gặt hái về không biết để đâu: “Chúa bảo người đó: đồ dại dột, ngay
đêm nay, người ta sẽ lấy mạng sống của ngươi”[54] .
Chương trình
50. Những cố gắng đó muốn thực hiện hữu hiệu, không thể để
trong một tình trạng phân tán và rời rạc, càng không thể để đối chọi
nhau vì uy thế hay quyền lợi của một số người: hoàn cảnh hiện tại
đòi hỏi những chương trình có phối hợp, bởi vì một sự giúp đỡ có
kế hoạch bao giờ cũng hữu hiệu hơn một sự giúp đỡ, tùy cơ hội,
do thiện chí của từng người. Như chúng tôi đã nói ở trên, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, nêu rõ mục tiêu, chỉ định phương tiện, tập
trung các nỗ lực, để đáp ứng các nhu cầu hiện tại và những đòi hỏi
của tương lai. Hơn nữa những chương trình như thế còn vượt quá
những mục tiêu của việc phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội: nghĩa
là làm cho công cuộc sẽ thực hiện có ý nghĩa, có giá trị, và làm cho
con người có thêm phẩm giá trong lúc chỉnh trang thế giới.
Ngân quỹ quốc tế
51. Còn phải đi xa hơn nữa. Tại Bombay, chúng tôi đã kêu gọi thiết
lập một ngân quỹ quốc tế đóng góp bởi một phần kinh phí, để đem
giúp đỡ những nước đói kém nhất[55]. Chống nghèo đói cần thiết
như thế nào thì phát triển các dân tộc cũng cần thiết như vậy. Ngân
quỹ quốc tế này vừa là hình ảnh, vừa là khí cụ của sự hợp tác giữa
các dân tộc. Chỉ có sự hợp tác như thế, mới có thể giúp vượt qua
được những tranh chấp vô ích và khơi nguồn cho một cuộc đối
thoại phong phú và thanh bình giữa các dân tộc.
Ích lợi của ngân quỹ quốc tế
52. Lẽ dĩ nhiên hiệp ước ký kết giữa hai nước hoặc nhiều nước
vẫn còn nên giữ lại vì những hiệp ước ấy thiết lập những mối giao
hảo thân thiện và bình đẳng về pháp lý cũng như chính trị để thay
thế cho những mối tương quan bất bình đẳng và hằn học dưới thời
thực dân. Những hiệp ước đó, nếu được đặt trong một chương
trình hợp tác quốc tế, sẽ tránh được mọi nghi ngờ. Thực vậy các
nước được hưởng viện trợ sẽ bớt lo ngại rằng: một thứ thực dân
mới có thể núp dưới hình thức viện trợ tài chánh và kỹ thuật, để
gây áp lực chính trị và đô hộ kinh tế, đồng thời để củng cố hoặc để
thiết lập sự thống trị của một thiểu số.
Cần cấp thời
53. Vả lại ai mà không thấy rằng, Ngân quỹ quốc tế như chúng tôi
đã đề cập tới, sẽ cho phép trích bớt đi một số chi phí mà người ta
phải hao tốn vì sợ hãi hay kiêu căng ! Một khi bao dân tộc còn đói
khát, bao gia đình còn đau khổ vì túng quẫn, bao người còn chìm
đắm trong dốt nát, bao trường học, bệnh xá, nhà ở hẳn hoi còn
chưa xây cất, thì tất cả những phí phạm công hay tư, tất cả những
chi tiêu huênh hoang của nhà nước hay cá nhân, tất cả cuộc chạy
đua võ trang đến kiệt quệ, tất cả điều đó trở thành một điều ô nhục
không tha thứ được, chúng tôi có nhiệm vụ nặng nề phải tố cáo
điều đó, xin các vị hữu trách hãy nghe chúng tôi, trước khi quá trễ.Đối thoại
54. Vì thế các dân tộc cần phải đối thoại với nhau, đối thoại như
chúng tôi đã tha thiết mời gọi trong Thông điệp đầu tiên,
ECCLESIAM SUAM[56]. Nếu có được đối thoại như thế giữa những
nước giúp phương tiện và những nước lãnh nhận thì dễ dàng tính
toán đúng những sự giúp đỡ cần thiết không những tùy theo lòng
quảng đại và khả năng của bên cung cấp, nhưng còn tùy theo
những nhu cầu thực sự và những khả năng hưởng dụng của bên
lãnh nhận. Như vậy, các nước kém mở mang khỏi bị đeo nợ nặng
nề, và chỉ lo trả lãi là hết lợi tức rồi. Vậy phải quy định số phân lãi
và thời hạn trả nợ, sao cho cả đôi bên có thể chịu đựng được,
nghĩa là quân bình những món biếu không, những khoản vay khỏi
mất lãi hay lãi rất nhẹ, và thời hạn các khoản phải trả dần. Cũng
phải bảo đảm cho những kẻ trả vốn, đảm bảo về việc sử dụng ngân
khoản theo một kế hoạch đã đồng ý và với một hiệu năng hợp lý,
bởi vì không nên khuyến khích những kẻ lười biếng và ăn bám. Về
phía người hưởng dụng sẽ có thể đòi hỏi người ta không được can
thiệp vào nội bộ chính trị, cũng không được làm xáo trộn cơ cấu
xã hội của mình. Là những quốc gia có chủ quyền, chỉ có họ mới
có quyền điều khiển công việc, hoạch định chính sách và tự do lựa
chọn chính thể của mình. Vậy phải đi đến một sự cộng tác tự
nguyện, một sự tham dự hữu hiệu của cả đôi bên, trong tinh thần
tôn trọng lẫn nhau, để xây dựng một thế giới nhân đạo hơn?
Sự cần thiết
55. Đề nghị trên đây hầu như không thể thực hiện được trong
những vùng mà việc lo ăn hằng ngày đã chiếm hết cuộc sống gia
đình đến nỗi không còn lòng trí nào để nghĩ tới một chương trình
khả dĩ sửa soạn cho một tương lai bớt cùng cực. Nhưng chính
những người đó là những người cần được giúp đỡ, cần được
khuyến khích để họ vừa tự nguyện bước vào con đường tiến bộ
của họ, vừa tự mình tìm lấy những phương tiện cần thiết để tiến
bộ. Chắc chắn công cuộc này đòi hỏi góp sức kiên trì và can đảm.
Nhưng mỗi người phải thâm tín rằng đây là một vấn đề sống còn
của các dân tộc nghèo, của sự hòa hợp dân tộc trong các nước
kém mở mang, và của hòa bình thế giới.
2. Công bằng trong giao dịch thương mại
56.Tất cả cố gắng để giúp đỡ các nước kém mở mang về phương
diện tài chánh và kỹ thuật, dầu lớn lao đến đâu, quan hệ thương mại giữa nước giàu và nước nghèo làm cho những sự giúp đỡ kia
một phần nào bớt hiệu lực. Các nước nghèo sẽ hết tín nhiệm ở
nước giàu khi họ có cảm tưởng là tay này cho vay tay kia lấy lại.
Tình trạng chênh lệch
57. Các nước đã có kỹ nghệ cao, thì xuất cảng nhiều nhất là các
hàng hóa chế tạo, còn các nước kém mở mang thì chỉ có thể bán
ra các nông phẩm và nguyên liệu. Nhờ có tiến bộ kỹ thuật và hàng
hóa các nước kỹ nghệ tăng giá trị nhanh chóng và bán được dễ
dàng. Trái lại, những nguyên liệu của các nước kém mở mang bán
ra lại thường bị nạn giá cả lên xuống bất ngờ và quá đáng: nếu giá
trị hàng hóa còn lâu mới tăng được đều đặn. Các nước kém kỹ
nghệ gặp khó khăn trầm trọng, khi phải đặt một phần lớn hy vọng
vào việc xuất cảng để quân bình nền kinh tế và thực hiện kế hoạch
phát triển. Vì thế, các dân tộc đã nghèo lại càng nghèo thêm, các
dân tộc đã giàu thì càng giàu hơn nữa.
Tự do trao đổi
58.Như thế có nghĩa là luật “tự do trao đổi” một mình nó mà thôi,
không còn đủ để chi phối mối quan hệ giữa các dân tộc. Khi các
nước hiệp thương với nhau mà tình trạng kinh tế không quá chênh
lệch, thì tự do trao đổi quả là có lợi, bởi vì nó kích thích phát triển
và tương lệ nỗ lực. Vì thế mà các nước có kỹ nghệ phát triển cho
rằng nguyên tắc tự do trao đổi là một luật công bằng. Nhưng giữa
các nước có tình trạng kinh tế quá chênh lệch, thì không còn nói
như thế được nữa: vì giá cả “tự do thỏa thuận” trên thị trường có
thể đưa tới những hậu quả bất công. Phải nhìn nhận rằng: cần xét
lại chính cái nguyên tắc căn bản của thuyết “tự do” dùng làm quy
luật cho các cuộc giao thương.
Công bằng trong các thỏa ước quốc tế
59.Học thuyết của Đức Lêô XIII trong thông điệp Rerum Novarum
vẫn còn giá trị. Theo đó thì trong những điều kiện cũng sẽ trở thành
hoàn toàn ảo tưởng và vô ích, nếu những quá xa nhau, sự đồng ý
của hai bên ký kết không đủ để đảm bảo cho tờ hợp đồng được
công bằng, và luật tự do ưng thuận còn phải lệ thuộc vào những
đòi buộc của luật tự nhiên[57]. Điều gì phải giữ để cho đồng lương
của mỗi một người thợ được công bằng, thì cũng phải đem áp
dụng cho các thỏa ước quốc tế. Bởi vì hệ thống thương mại không
còn thể chỉ dựa trên nguyên luật tự do cạnh tranh. Tuy nói tự do,
nhưng thường khi nó lại phát sinh một nền kinh tế độc tài. Tự do giao thương chỉ công bằng khi nào tuân theo những đòi hỏi của
công bằng xã hội.
Những biện pháp phải theo
60.Tuy nhiên chính những nước đã mở mang cũng đã hiểu điều
đó – họ cố gắng bằng những biện pháp thích ứng, đem lại sự quân
bình trong nền kinh tế gia, mà nếu để mặc cho tự do cạnh tranh,
thì sẽ xáo trộn nặng nề. Vì thế họ thường nâng đỡ nông nghiệp
bằng cách buộc các ngành kinh tế thịnh vượng hơn phải hy sinh
đóng góp. Cũng vì thế, để nâng đỡ những giao dịch thương mại
giữa các nước, nhất là trong một thị trường chung, chính sách tài
chánh, thuế khóa và xã hội của họ phải cố giúp cho các ngành kỹ
nghệ kém thịnh đạt cũng có thể phát triển được như những ngành
khác.
Những hiệp ước quốc tế
61.Cần phải dùng một đấu thực đồng đều để đo lường đối với nền
kinh tế của nước mình thế nào, đối với mối quan hệ thương mại
giữa các nước tiến bộ với nhau thế nào, thì đối với cuộc quan hệ
thương mại giữa những nước giàu với những nước nghèo cũng
vậy. Tuy không loại bỏ cạnh tranh trên thị trường, nhưng phải giữ
cho cạnh tranh đó ở trong giới hạn công bằng, hợp đạo và xứng
với con người hơn. Trong việc thương mại giữa những nền kinh tế
phồn thịnh với những nền kinh tế kém mở mang, hoàn cảnh quá
khác nhau và khả năng cũng không đồng đều. Sự giao dịch thương
mại giữa các nước, muốn cho ngay thẳng và nhân đạo, theo luật
công bằng, phải cho hai bên, ít nhất, những sự may mắn mua bán
đồng đều. Đó là mục đích về lâu dài. Nhưng muốn đạt tới đó, phải
tạo lập ngay từ bây giờ sự công bằng thực sự trong các cuộc thảo
luận và thương thuyết. Trong các vấn đề này, nếu có được những
thỏa hiệp ký kết giữa một số đông quốc gia, thì rất lợi: vì những
thỏa hiệp đó sẽ đặt những nguyên tắc tổng quát để điều hòa một
số giá cả, để bảo đảm cho một số sản phẩm để nâng đỡ một số kỹ
nghệ mới phát sinh. Ai mà lại không thấy rằng: một cố gắng chung
để tiến tới công bằng hơn giao dịch buôn bán giữa các nước, sẽ
đem lại cho các quốc gia kém mở mang một sự giúp đỡ hữu hiệu:
kết quả tuy chưa thấy ngay, nhưng sẽ còn mãi.
Chủ nghĩa suy tôn quốc gia quá độ.
62. Còn có những chướng ngại vật khác đang cản trở việc xây
dựng một thế giới công bằng hơn và có cơ cấu vững chắc hơn trong tình liên đới nhân loại. Đó là: Chủ nghĩa suy tôn quốc gia và
chủng tộc quá độ.
Người ta nhận thấy rằng có những dân tộc mới thâu hồi được độc
lập, hết sức lo lắng bảo vệ một sự thống nhất chưa có gì vững
mạnh; cũng có những dân tộc có nền văn minh cổ kính, hãnh diện
về di sản của cha ông để lại. Những tâm tình đó chính đáng, nhưng
phải được nâng cao lên tới một mức độ toàn thiện, nhờ một tình
yêu đại đồng bao trùm lấy tất cả nhân loại. Chủ nghĩa suy tôn quốc
gia làm cho các dân tộc chia rẽ nhau, và có hại cho lợi ích chính
của họ. Tai hại nhất là những miền mà kinh tế nghèo nàn đòi buộc
phải góp chung với nhau nỗ lực, hiểu biết và phương tiện tài chánh
để thể hiện những chương trình phát triển kinh tế và gia tăng trao
đổi thương mại và văn hóa.
Chủ nghĩa suy tôn chủng tộc quá độ
63. Đề cao chủng tộc quá độ không phải chỉ là chuyện riêng của
các quốc gia mới độc lập. Ở các xứ này, nó thường là nguyên nhân
của những vụ tranh chấp giữa các bộ lạc hay đảng phái chính trị,
chẳng những vi phạm nặng nề đến đạo công bằng, mà còn đe dọa
đời sống yên hàn và sinh mạng của dân chúng.
Dưới thời thực dân, nó thường xảy ra giữa kiều dân và người bản
xứ, cản trở cả đôi bên hiểu biết nhau một cách hữu ích và gây nên
nhiều hận thù vì những tủi nhục phải gánh chịu. Nó cũng cản trở
không cho các nước nghèo cộng tác với nhau. Nó còn là một mầm
chia rẽ và hận thù ngay giữa lòng các dân tộc, khi người ta không
kể gì những quyền bất khả di nhượng của con người mà loại ra
một bất công hoặc cá nhân hoặc gia đình, không cho hưởng những
quyền căn bản như các công dân khác, chỉ vì màu da hay chủng
tộc.
Một thế giới liên đới hơn
64.Một tình trạng như thế đang đe dọa trầm trọng ngày mai, làm
cho chúng tôi đầy tràn lo âu và đau khổ. Nhưng chúng tôi cũng hy
vọng rằng nhờ có một ý chí cộng tác mỗi ngày một mạnh mẽ và
một ý thức liên đới mỗi ngày một sâu xa, Những nghi kỵ và ích kỷ
cuối cùng cũng sẽ bị đánh bại. chúng tôi hy vọng rằng các quốc gia
kém mở mang biết lợi dụng sự lân cận để cùng nhau tổ chức trên
những phần đất rộng lớn, làm những vùng phát triển có phối hiệp:
như thiết lập những chương trình chung, điều hợp với đầu tư, phân
phối khả năng sản xuất, và tổ chức trao đổi hàng hóa. Chúng tôi
hy vọng rằng các tổ chức đa phương hoặc quốc tế, rồi đây nhờ cải tổ lại tùy nhu cầu, sẽ tìm thấy phương thức giúp đỡ các nước kém
mở mang thoát khỏi ngõ bí hiện tại của họ và để chính họ khám
phá ra con đường tiến bộ về xã hội cũng như văn hóa, mà vẫn giữ
được quốc tính của mình.
Ước nguyện của các dân tộc
65.Đàng nào cũng phải tiến tới đó. Tình liên đới giữa các dân tộc,
mỗi ngày một hoạt động ráo riết, làm cho các dân tộc có thể tự
mình nắm lấy vận mệnh của mình. Trong quá khứ, mối tương quan
giữa các dân tộc thường chỉ là mạnh được yếu thua. Ước gì tới
ngày thanh bình, mối tương quan giữa các dân tộc sẽ mang dấu:
Tôn trọng lẫn nhau, thân thiện với nhau, tùy thuộc vào nhau để
cùng cộng tác, cùng thăng tiến với nhau, nhưng mỗi người một
trách nhiệm. Các nước đang vươn lên còn thiếu thốn, cũng đòi
được tham gia tích cực vào việc xây dựng một thế giới đẹp hơn,
kính trọng quyền lợi và sứ mạng của mỗi người hơn. Đó là một
ước nguyện chính đáng, mỗi người phải lắng nghe và đáp ứng.
3. Tình thương yêu đại đồng
Một xã hội thiếu tình huynh đệ
66. Xã hội loài người đang đau ốm trầm trọng. Nguyên nhân của
bệnh tình này không phải là tài nguyên của thiên nhiên kiệt quệ hay
lòng tham của một số người vơ vét, mà chính là thiếu tình thương
huynh đệ giữa người với người cũng như giữa dân tộc với dân tộc.
Bổn phận đón tiếp
67.Vì thế Chúng tôi nghĩ rằng không bao giờ nói cho đủ về bổn
phận đón tiếp, bổn phận đón tiếp vì liên đới con người cũng như vì
tình thương của Chúa Kitô, bổn phận đón tiếp trong các gia đình
cũng như đón tiếp trong các tổ chức văn hóa của các quốc gia có
người tới cư ngụ. Nhất là đối với lớp trẻ, cần phải có nhiều gia đình
và cư xá hiếu khách. Trước tiên là để cho họ khỏi cô đơn, tuyệt
vọng làm suy giảm nghị lực của họ; thứ đến là giúp họ khỏi rơi vào
cảnh sa đọa của nơi họ tới ở, khi bắt buộc phải so sánh cảnh cơ
cực tuyệt độ của quê hương họ với nếp sống sa hoa xài phí phủ
phê đang bao vây họ. Cũng để giúp họ khỏi bị lôi cuốn theo những
học thuyết khuấy rối và những cám dỗ bạo động luôn luôn ám ảnh
tâm tư họ, mỗi khi họ nhớ tới số phận bần cùng không đáng phải
chịu của dân tộc họ[58]. Sau hết để họ có được một bầu không khí
huynh đệ, được thấy mẫu gương của một đời sống lành mạnh và
nhờ đó mà thấy được tình thương đích thực của người giáo hữu Kitô, một tình thương hữu hiệu và yêu mến những giá trị thiêng
liêng cao cả.
Thảm trạng của các sinh viên du học
68.Thực là đau đớn cho chúng tôi khi nghĩ rằng có nhiều thanh
niên tới các nước giàu có để học về khoa học, kỹ thuật và văn
chương, mong có khả năng để phục vụ quê hương quả họ đã được
đào tạo hết sức đầy đủ, nhưng lắm lúc họ cũng hết yêu chuộng
những giá trị tinh thần, mà nền văn minh của quê hương họ vẫn có
như một gia tài quý báu.
Hoàn cảnh của các người di dân
69.Cũng phải dành một sự đón tiếp tương tự cho các công nhân
xa quê hương. lắm lúc họ sống trong những điều kiện không xứng
với con người, cố dành dụm một phần đồng lương gởi về giúp đỡ
gia đình đang sống cực khổ trên quê hương.
Bổn phận xã hội của các nhà kinh doanh
70.Bằng lời khuyến dụ này chúng tôi lại muốn kêu gọi những kẻ
đến kinh doanh trong những nước mới kỹ nghệ hóa: các kỹ nghệ
gia, thương gia, chủ nhân hoặc đại diện các xí nghiệp lớn. Ở trong
nước họ, họ thường vẫn không thiếu tinh thần xã hội. Nhưng tại
sao, khi đến kinh doanh trong các nước kém mở mang, họ lại trở
về với nguyên tắc vô nhân đạo là chỉ phục vụ lợi ích của mình?
Hoàn cảnh ưu đãi của họ đáng lẽ thôi thúc họ dẫn đầu trong công
cuộc phát triển xã hội và tiến bộ con người, nơi họ đến kinh doanh
– óc tổ chức của họ đáng lẽ giúp họ tìm ra phương thức cải tiến
việc làm của người bản xứ, đào tạo thợ chuyên môn, sửa soạn cho
có kỹ sư và cấp lãnh đạo, cho họ có sáng kiến đem họ vào dần
trong những nhiệm sở cao cấp, giúp họ chia sẻ với mình, trong một
tương lai gần, trách nhiệm lãnh đạo. Ít nữa, ước gì luôn luôn có sự
công bằng làm mẫu mực trong mối liên lạc giữa cấp trên và cấp
dưới. Ước gì có những khế ước hợp pháp, nêu rõ nghĩa vụ đôi
bên, làm căn bản cho mọi liên lạc. Nhất là, ước gì đừng có ai ở bất
cứ cương vị nào, bị bất công vì chuyên chế.
Sứ mạng của các chuyên viên.
71. Chúng tôi rất hoan hỷ nhận thấy rằng: số chuyên viên được
các tổ chức quốc tế, tổ chức song phương hoặc cơ quan tư nhân
gởi đi giúp phát triển mỗi ngày một đông. Họ đừng “xử sự như chủ
mà chỉ nên xử sự như phụ tá và cộng tác viên”[59]. Dân chúng thấy rất nhanh; ai đến giúp đỡ họ với yêu thương, ai không; ai đến chỉ
để áp dụng kỹ thuật, ai đến để nâng cao phẩm giá con người. Tín
thư của họ có thể không được chấp nhận, nếu nó không được gói
ghém trong một tình yêu thương huynh đệ.
Đức tính của các chuyên viên
72.Nếu những khả năng chuyên môn là cần, thì càng cần hơn nữa,
kèm theo, những dấu hiệu đích thực biểu lộ một tình thương vô vị
lợi. Các chuyên viên phải không còn có tinh thần suy tôn quốc gia
mình quá độ và tránh mọi hình thức kỳ thị chủng tộc; họ phải tập
cộng tác với mọi người và bất cứ ai. Họ nên chân thành nhìn nhận
rằng kiến thức và khả năng chuyên môn của họ không cho họ đứng
đầu trong mọi lãnh vực. Cho dù nền văn minh đã đào tạo họ có
chứa đựng ít nhiều tính chất nhân bản đại đồng nhưng đừng nghĩ
rằng nền văn minh đó là độc nhất và hơn hết. Bởi thế khi đem du
nhập vào các nước ngoài thì phải được thích nghi đầy đủ với hoàn
cảnh địa phương. Những ai lãnh trách nhiệm như thế là phải lưu
tâm khám phá ra lịch sử cũng như những tính chất và kho tàng văn
hóa của xứ sở đón tiếp họ. Nhờ tiếp xúc với nhau như thế, cả hai
nền văn minh đều sẽ cùng thêm phong phú.
Đối thoại giữa các văn minh
73. Văn minh là văn minh, cũng như người đối thoại với người chân
thành dễ làm phát sinh đoàn kết và huynh đệ. Công cuộc phát triển
chung này sẽ làm cho các dân tộc thêm gần nhau, nếu tất cả mọi
người, từ những người đứng đầu và những người đại diện họ cho
tới một chuyên viên tầm thường nhất đều có tình thương huynh đệ
và đều chân thành mong ước một nền văn minh đại đồng cho thế
giới. Lúc đó mới bắt đầu một cuộc đối thoại biết chú trọng đến con
người chứ không phải chỉ chú trọng đến tài nguyên và hàng hóa.
Cuộc đối thoại này sẽ có nhiều thành quả, nếu nó mở đường cho
các dân tộc trong cuộc phát triển kinh tế và nâng cao đời sống tinh
thần: nếu các kỹ thuật gia làm công việc của các nhà giáo dục và
nếu nền giáo dục này có được một sắc thái cao quý hơn, ảnh
hưởng đến tâm hồn cũng như phong tục, không những làm phát
triển kinh tế, mà còn làm thăng tiến con người. Như thế, khi viện
trợ đã chấm dứt, mối giây liên lạc đã được thiết lập vẫn tồn tại vững
mạnh. Ai lại không thấy những mối giây liên lạc như thế sẽ góp
phần vào việc bảo vệ hòa bình trên thế giới?
Kêu gọi Thanh Niên74. Chúng tôi biết rằng có rất nhiều thanh niên đã hăng hái và
nhanh chóng đáp lại lời kêu gọi của Đức Piô XII để làm thành một
tổ chức giáo dân truyền giáo[60]. Ngoài ra chúng tôi cũng biết, một
số thanh niên khác đã tự nguyện đặt mình dưới quyền sử dụng
của các tổ chức, công cũng như tư, có mục đích nhằm cộng tác
với các nước đang mở mang. chúng tôi cũng hoan hỷ nghe tin rằng
ở vài nước, “quân dịch” có thể một phần trở thành “dịch vụ xã hội”,
hoặc gọi tắt là “dịch vụ”. Chúng tôi hoan hỷ chúc lành cho các sáng
kiến đó và những người có thiện chí thể hiện điều đó. Ước gì
những ai tự nhận mình là đồ đệ của Chúa Kitô hãy nghe tiếng gọi
của Người: “Ta đói và các con đã cho Ta ăn, Ta khát và các con
đã cho Ta uống, Ta từ xa tới, và các con đã đón tiếp Ta, Ta bị tù
và các con đã đến gặp Ta”[61] . Không ai có quyền thản nhiên nhìn
số phận của người anh em mình, đang chìm đắm trong bần cùng,
đang bị ngu dốt dày vò, đang khổ cực vì thiếu an ninh. Người tín
hữu cũng phải chạnh lòng như Chúa Kitô, Đấng đã nói ra “Ta
thương xót quần chúng”[62] .
Cầu nguyện và hành động
75.Tất cả mọi người cũng thành khẩn kêu cầu Thiên Chúa toàn
năng, cho nhân loại, một khi đã thắng những tai họa to lớn ấy, thì
để lòng trí mà tìm cách đẩy lui nó. Cùng với lời cầu nguyện đó, mỗi
người còn phải tự nguyện dấn thân, tùy sức lực và khả năng của
mình, chiến đấu chống sự kém mở mang của các dân tộc. Ước gì
cá nhân, đoàn thể, tất cả các quốc gia, nắm tay nhau như anh em,
kẻ mạnh giúp kẻ yếu lớn lên, bỏ vào đó tất cả hiểu biết hăng say
và tình thương vô vị lợi của mình. Hơn ai hết, người có tình thương
anh em sẽ có biệt tài khám phá nguyên nhân của bần cùng, tìm
thấy phương thức để diệt trừ nó. Là người xây dựng hòa bình, “họ
lên đường, nét mặt vui tươi, đổ tràn ánh sáng và ân sủng vào lòng
mỗi người trên thế giới, giúp mọi người, dầu đi tới đâu, dầu vượt ra
ngoài biên giới, cũng nhận ra những bộ mặt anh em và bạn hữu”[63] .
Một trật tự mới
76. Những chênh lệch quá lớn lao giữa các dân tộc về phương
diện kinh tế, xã hội, và chủ thuyết, gây nên hận thù tranh chấp và
đe dọa hòa bình thế giới. Như Chúng tôi đã nói với các nghị phụ
Công đồng sau khi đi Liên Hiệp Quốc về: “Chúng ta phải chú trọng
đến hoàn cảnh sống của các nước kém mở mang; và nói rõ hơn,
tình thương của chúng ta đối với người nghèo vô số trên thế giới,
phải vồn vã hơn, hữu hiệu hơn và đại độ hơn”[64]. Chống bần cùng, chống bất công không phải chỉ là làm cho đời sống con người dễ
chịu hơn, mà còn phát huy tinh thần đạo đức của mọi người và
mưu cầu lợi ích chung của nhân loại. Hòa bình không phải chỉ là
không có chiến tranh, hòa bình cũng không phải là thành quả của
một sự quân bình giữa các sức mạnh, luôn bấp bênh – hòa bình
được xây dựng ngày này sang ngày khác bằng cách thiết lập một
trật tự công bằng hơn giữa loài người như Chúa muốn[65] .
Ra khỏi cảnh cô độc
77- Các dân tộc chỉ thể hiện được sự mở mang của mình khi tự
mình đảm nhiệm lấy mọi trách nhiệm. Nhưng công cuộc đó cũng
không thể hoàn thành, nếu mỗi nước một mình cô độc. Vậy phải
có những thỏa ước ký kết giữa các dân tộc nghèo cùng một miền,
để giúp đỡ lẫn nhau; phải có những thỏa hiệp rộng rãi hơn để giúp
đỡ các nước đó; phải có những hiệp ước khác quan trọng hơn
giữa các nước khác nữa để thiết lập những chương trình chung:
đó là những thứ cột làm mục tiêu trên con đường đưa đến những
tiến bộ, đưa đến hòa bình.
Một uy quyền quốc tế hữu hiệu
78.Sự cộng tác giữa các dân tộc trên thế giới đòi hỏi những cơ cấu
để sửa soạn, phối hiệp và điều khiển công cuộc đó cho tới lúc có
một cơ cấu pháp lý được mọi người nhìn nhận. Chúng tôi hết lòng
khuyến khích những tổ chức nhằm cộng tác với nhau để giúp các
dân tộc phát triển, và chúng tôi cầu chúc cho uy tín các tổ chức gia
tăng. Vì thế khi ngỏ lời trước các đại biểu Liên Hiệp Quốc tại Nữu
Ước chúng tôi có nói: “Sứ mạng của quý vị là cổ võ tình anh em,
không phải chỉ giữa một vài dân tộc, mà tất cả mọi dân tộc. (…) Ai
lại không thấy cần phải tiến dần như thế tới chỗ thiết lập một uy
quyền quốc tế khả dĩ hành động hữu hiệu trên bình diện pháp lý và
chính trị”[66] .
Hy vọng một thế giới tốt đẹp hơn
79.Có người sẽ cho những hy vọng như thế là không tưởng. Có
thể là lối nhận định thực tại của họ có gì thiếu sót. Họ đã không
nhận thấy động lực của một thế giới trong đó con người đang muốn
sống với nhau như anh em hơn; và con người mặc dầu xa cách vì
ngu dốt, lầm lạc, và mặc dầu mò mẫm lầm lạc, và tội lỗi, mặc dầu
lắm lúc sa đi ngã lại trong lối sống man rợ, và mặc dầu mò mẫm
dài dẳng xa con đường cứu độ, con người ấy cho dầu không ý
thức đi nữa vẫn dần dà xích lại gần Đấng Tạo Hóa của mình. Đường lối tiến đến chỗ nhân đạo hơn ấy đòi hỏi cố gắng và hy
sinh, nhưng ngay cả khổ đau khi được chấp nhận vì tình thương
đối với anh em chúng ta, cũng đem theo tiến bộ cho tất cả gia đình
nhân loại. Các người giáo hữu Kitô biết rằng kết hợp với lễ hy sinh
của Đấng Cứu Thế là để góp công xây dựng Thân Mình Đức Kitô
cho thành toàn, là để quy tụ dân Thiên Chúa lại[67] .
Tất cả mọi người đều liên đới
80. Trên con đường ấy, tất cả mọi người đều phải liên đới. Do đó
chúng tôi thấy có bổn phận nhắc nhở mọi người về vấn đề rất
nghiêm trọng ấy và về công cuộc phải cấp bách thể hiện. Giờ hành
động đã điểm, bởi vì sự sống của bao trẻ em vô tội, hy vọng của
bao gia đình nghèo khổ, hòa bình của thế giới, văn minh của nhân
loại, tất cả đang bị đe dọa, hết thảy mọi người và hết thảy mọi dân
tộc đều phải lãnh lấy trách nhiệm.
Lời kêu gọi kết thúc
Nói với người công giáo
81.Trước tiên, chúng tôi khẩn khoản kêu gọi tất cả con cái chúng
tôi. Bởi vì trong những nước kém mở mang cũng như trong những
nước khác, giáo dân có bổn phận phải cải thiện đời sống xã hội
của mình. Nếu vai trò của hàng Giáo phẩm là giảng dạy và giải
thích, với thẩm quyền, các nguyên tắc luân lý phải theo trong lãnh
vực này, thì phần của các giáo dân, là nhờ những sáng kiến tự do
của họ và không vòng tay ngồi đợi mệnh lệnh và chỉ thị, đưa tinh
thần Chúa Kitô vào trong não trạng và phong tục, luật lệ và cơ cấu
của cộng đồng mình sống(68). Có những thay đổi cần thiết, có
những cải tổ sâu xa phải thực hiện; thì nghĩa vụ của họ là làm hết
sức để thổi vào đó tinh thần Tin Mừng. Riêng với các con cái chúng
tôi thuộc về những nước may mắn thịnh vượng hơn, chúng tôi yêu
cầu họ đem khả năng chuyên môn cộng tác tích cực với các tổ
chức công, hay tư, đời hay đạo, có mục đích lướt thắng những khó
khăn của các nước còn phải mở mang. Chúng tôi đoan chắc rằng
họ sẽ sẵn sàng đứng đầu hàng ngũ những kẻ không từ chối một
cố gắng nào để xây dựng trong thực tế một nền luân lý quốc tế hợp
đạo công bình.
Nói với mọi tín hữu Chúa Kitô và những tín hữu khác
82.Chúng tôi chắc rằng toàn thể các Kitô hữu, anh em của chúng
tôi sẽ muốn tăng sức cố gắng chung và đồng thời nhằm giúp thế giới thắng được ích kỷ, kiêu hãnh, và các mối tị hiềm, vượt lên trên
những tham vọng và bất công, mở lối cho tất cả đi vào một nếp
sống cho ra người hơn trong đó ai cũng được yêu thương và giúp
đỡ như đồng loại, như anh em. Và, lòng còn cảm xúc vì cảnh hội
ngộ không thể quên được ở Bombay với các anh em của chúng tôi
ở ngoài Kitô giáo, một lần nữa chúng tôi xin mời họ đem hết tất cả
tâm trí ra hoạt động để làm sao cho con cái loài người có cơ hội
sống một cảnh đời xứng đáng với con cái Thiên Chúa.
Nói với những người thành tâm.
83. Sau cùng, chúng tôi hướng về tất cả những người thành tâm ý
thức rằng con đường hòa bình phải đi qua phát triển. Là các đại
diện trong các cơ quan quốc tế, là các chính khách, là các ký giả,
là các nhà giáo dục, các ngài tất cả mỗi người ở chỗ đứng của
mình, đều là những kẻ xây dựng một thế giới mới. Phần chúng tôi,
Chúng tôi khẩn cầu Thiên Chúa Toàn Năng soi sáng trí tuệ và củng
cố lòng can đảm của các ngài, để thức tỉnh lương tâm mọi người
để ý tới những vấn đề tối quan trọng và thúc đẩy các dân tộc tìm
cách giải quyết những vấn đề đó. Các nhà giáo dục, phần việc của
các ngài là nhóm lên từ thuở thơ ấu tình thương đối với các dân
tộc khốn cùng. Các ký giả, phần việc của các ngài là đưa ra trước
mắt chúng tôi những cố gắng đã được thực hiện để xúc tiến việc
tương trợ giữa các dân tộc cũng như ảnh tượng những khốn cùng
mà người ta dễ quên cho yên lương tâm: ước gì những kẻ giàu ít
ra cũng biết rằng các kẻ nghèo ở ngay trước cửa nhà họ và đợi
chờ phần thừa thãi từ các bữa tiệc của họ.
Nói với các chính khách.
84.Các chính khách, nghĩa vụ của các ngài là làm cho các cộng
đoàn tùy thuộc các ngài liên đới chặt chẽ hơn với mọi người; thuyết
phục họ bằng lòng cho trích một phần xa hoa xài phí của họ để xúc
tiến việc mở mang các dân tộc và bảo vệ hòa bình. Sau hết một
phần lớn nhờ các ngài, quý vị đại diện trong các cơ quan quốc tế,
để có thể thay thế những cuộc đụng độ bằng vũ lực nguy hiểm và
vô bổ bằng sự hợp tác tinh thần, ôn hòa và vô vị lợi, để cho nhân
loại được phát triển đồng đều và con người được nảy nở thêm lên.
Các người hiền.
85.Thực ra thế giới bất ổn chẳng qua cũng vì thiếu suy tư. Vì thế
chúng tôi kêu gọi những kẻ thức thời và những người hiền, những
người công giáo và Kitô giáo, những kẻ tôn thờ Thượng Đế, những ai khát vọng công bình và chân lý tối cao, nghĩa là tất cả những ai
thành tâm thiện chí. Chúng tôi dám mượn lời của Đức Kitô khẩn
khoản thỉnh cầu các ngài: “Hãy tìm rồi sẽ gặp thấy”[68], hãy mở rộng
các nẻo đường cho mọi người giúp đỡ nhau, hiểu biết thêm, yêu
thương hơn, đưa tới một đời sống huynh đệ hơn, trong một cộng
đồng nhân loại thật là đại đồng.
Tất cả mọi người tra tay vào việc.
86. Sau hết, anh em tất cả là những kẻ đã nghe tiếng kêu than của
các dân tộc nghèo khổ, ra sức đáp lại tiếng gọi ấy. Có thể nói anh
em là những tông đồ của một công cuộc phát triển đích thực và
hữu ích, nghĩa là không phải thứ phát triển chỉ nhằm có của cải
một cách ích kỷ và yêu mến nó như một cùng đích, nhưng là một
thứ phát triển dựa trên một nền kinh tế nhằm phục vụ con người,
nhằm phân phối đều cơm bánh hằng ngày cho mọi người như một
nguồn tình thương huynh đệ và dấu hiệu Chúa quan phòng.
Chúc lành.
87. Chúng tôi hết lòng chúc phúc cho anh em, và chúng tôi kêu gọi
mọi người thành tâm đến hợp sức với anh em trong tình huynh đệ.
Bởi vì nếu ngày hôm nay phát triển là danh hiệu mới của hòa bình,
thì ai lại không đem hết tâm trí và sức lực vào công cuộc phát triển
ấy? Vì vậy chúng tôi khuyên mời anh em, vì Danh Thiên Chúa, hãy
mau đáp lại tiếng gọi lo âu của chúng tôi.
Từ Vatican, Lễ Phục Sinh, 26-3-1967
[1] Thông điệp quan trọng đầu tiên về vấn đề xã hội (15-5-1891)
[2] Thông điệp nhân ngày kỷ niệm 50 năm ban hành thông điệp RN
(15-5-1931) Đức Piô XI xác định lại học thuyết của Đức Leo XIII và
đề cập tới những sự kiện và vấn đề trong khoảng 40 năm qua .
[3] Thông điệp MM, một thông điệp xã hội rất quan trọng, sau RN
và QA.
[4] Thông điệp nói về hòa bình và nhưng điều kiện để thể hiện Hòa
bình.
[5] Trong số những thông điệp quan trọng của Đức Piô XII về vấn
đề xã hội có thể kể là:
-Thông điệp 1-6-1941 để kỷ niệm 50 năm thông điệp Rerum
Novarum
– Thông điệp Giáng Sinh năm 1942
[6]Thông điệp Mater et Magistra[7] Hiến chế mục vụ về “Giáo hội trong thế giới ngày nay “số 63-72
[8] Tự sắc “Giáo hội Công giáo của Chúa Kitô” (6-1-1967) là văn
kiện thành lập Uỷ ban “Công lý và Hòa bình”.
[9] Thông điệp Rerum Novarum
[10] Hiến chế mục vụ về “Giáo hội trong thế giới ngày nay”, số 63
[11] Lc 7,22 .
[12] Hiến chế mục vụ … 32.
[13] Thông điệp Immortale Dei (1-11-1885) của Đức Leo XIII
[14] Hiến chế mục vụ số 4 đoạn 1 .
[15] L.J.Lebert “Dynamique concrète du développement” Paris
1961 trang 28
[16] 2Tx 3,10 .
[17] x. J.Maritain “Les conditions spirituelles du progrès et de la
paix”.
[18] Mt 5,3.
[19] Sách Sáng thế 1,28.
[20] GS số 69 đoạn 1.
[21] Thư thứ nhất của Thánh Gioan 3,17
[22] Xem 1 R.Palanque “Saint Ambroise et l’Empire romain” – Paris
1933 trang 336
[23] Thư gởi tuần lễ xã hội ở Brest (đọc trong “L’homme et la
révolution urbaine” Lyon 1965 trang 8-9)
[24] Hiến chế mục vụ … số 71 đoạn 6.
[25] Hiến chế mục vụ … số 65 đoạn 3
[26] thông điệp Quadragesimo Anno
[27] thông điệp Quadragesimo Anno
[28] x.chẳng hạn “Colin Clark, The conditions of economic
progress” New York 1965 trg 6
[29] Xem chẳng hạn M.D.Chenu “Pour une théologie du travail”,
Seuil 1955
[30] Mater et magistra
[31] x. chẳng hạn O.Von Nel Breuning:“Wirtschaft und
Gesellschaft” Herder 1956 t.I tr.183
[32] Thư Thánh phaolô gởi giáo hữu Ephêso 4,13.
[33] Xem chẳng hạn Mg. Larrain Errazruriz “Lettre pastorale sur le
développement et la paix”. Paris 1965
[34] Hiến chế mục vụ, số 26 đoạn 4
[35] Thông điệp Mater et Magistra ibid trang 414
[36] Báo Osservatore Romano 11-9-1965
[37] Matthêu 19, 6 .
[38] Hiến chế mục vụ … số 52 đoạn 2.[39] Như trên số 50 51 và 87 đoạn 2,3
[40] Như trên số 15 đoạn 3.
[41] Matthêu 16, 26
[42] Hiến chế mục vụ … 57 đoạn 4.
[43] Hiến chế mục vụ … 19 đoạn 2
[44] Xem chẳng hạn J.Maritain “L’humanisme intégral” Paris 1936
[45] H.de Lubac “Le drame de l’humanisme athée” Paris 1954 tr.
10
[46] Pascal “Pensée”, Ed. Brunschvicg số 434. Xem M. Under
“L’homme passe l’homme” Paris 1954 trang 10
[47] Diễn văn tiếp đại diện các tôn giáo ngoài Kytô giáo 3-12-1964
tại Bombay, AAS 57 (1965) trang 132 .
[48] Thư của Thánh Giacôbê 2, 15-16
[49] Mater et Magistra ibid trang 440 .
[50] AAS 56 (1964) 57-58
[51] Documentation Catholique quyển 43, 1965 cột 403-40
[52] Luca 16, 19-31.
[53] Hiến chế mục vụ 86 : 3 .
[54] Luca 12,20 .
[55] Điệp văn gởi thế giới 4-12-1964 AAS 57 (1965) trang 135 .
[56] Rerum Novarum (xem acta Leonis XIII (1892) trang 13) .
[57] Rerum Novarum (xem acta Leonis XIII (1892) trang 98) .
[58] Hiến chế mục vụ số 85 đoạn 2
[59] Thông điệp Fidei Donum 21-4-1957 AAS 49 (1957) trang 246
[60] Matthêu 25,35-36 .
[61] Marco 8,2
[62] Điệp văn của Đức Gioan XXIII dịp trao giải thưởng Balzan 10-
5-1963
[63] Văn kiện Tòa Thánh AAS 57 (1965) trang 896 .
[64] – Thông điệp Pacem in Terris (xem văn kiện Tòa Thánh AAS
55 (1963) trang 301
[65] Văn kiện AAS 57 (1965) trang 880
[66] Xem Ephéso 4,12 ; Hiến chế về Giáo hội số 13
[67] Sắc lệnh Công đồng về Tông đồ giáo dân số 7,13,24
[68] Luca 11,9 .