Trước khi tìm hiểu quan niệm về sự sống theo Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo, chúng ta cũng nên tìm hiểu một chút về định nghĩa sự sống là gì? Có thể nói khái niệm sự sống là thuật ngữ mang tính cách liên ngành. Bởi lẽ, sự sống là chủ đề nghiên cứu của rất ngành khoa học như sinh học, y khoa, kinh tế, chính trị, thần học… Thật khó để đưa ra một định nghĩa rốt ráo về khái niệm này. Mọi người đều thấy cây cỏ, động vật hay những sinh vật từ đơn giản cho đến phức tạp đều có sự sống. Thế nhưng để nói về sự sống con người thì ai cũng cho rằng sự sống đó khác hơn và đặc biệt hơn với các giống loài khác, bởi lẽ “phẩm chất” của con người cao hơn.
Tiếp theo, chúng ta cùng tìm hiểu về nguồn gốc theo đặc trưng của ngôn ngữ Kinh Thánh khi bàn về sự sống: ngoài sự sống của thực vật và động vật, còn có sự sống của con người và nhất là sự sống của Thiên Chúa. Thông điệp căn bản của Thánh Kinh cho biết con người là thụ tạo của Thiên Chúa (x. Tv 139,14-18), và theo thông điệp ấy, hình ảnh Thiên Chúa nơi con người chính là yếu tố định tính và phân biệt con người: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa; Ngài sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). Thiên Chúa đặt con người vào trung tâm và chóp đỉnh của trật tự sáng tạo. Con người (theo tiếng Hipri là “adam”) được tạo dựng từ đất (adamah) và Thiên Chúa thổi hơi sự sống vào mũi Ađam (x. St 2,7).[1]
Con người là một ngôi vị do Chúa tạo dựng để liên hệ với Ngài; chỉ trong mối liên hệ này, con người mới tìm được sự sống, mới thể hiện chính mình và hướng về Thiên Chúa một cách tự nhiên.[2] Vì thế, có thể nói sự sống con người được xem xét trong tương quan với Thiên Chúa, chứ không chỉ dưới khía cạnh của các khoa học khác. Thật ra, Kinh Thánh hàm chứa cả hai cái nhìn về sự sống: sự sống thể lý và sự sống thần linh. Như chúng ta đã biết, ngay từ những chương đầu tiên của sách Sáng thế, con người đã được dựng nên để sống trong tình nghĩa thân mật với Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng cảnh giác nguyên tổ là “đừng ăn trái cấm” kẻo phải chết (St 2,15). Trên thực tế, nguyên tổ đã ăn trái cấm, nhưng họ không lăn đùng ra chết tức khắc (kiểu như bị ngộ độc). Họ vẫn sống (theo nghĩa vật lý) nhưng đã mất ơn nghĩa với Chúa (mất sự sống thần linh). Tuy hai khía cạnh gắn liền với nhau, nhưng không tất nhiên đồng hóa với nhau. Con người mong mỏi được sống lâu trên cõi đời này, với đàn con cháu đông đúc, và đó là một ân huệ mà Chúa ban cho kẻ nào trung tín với giao ước (x. Đnl, 28). Tuy nhiên, bên cạnh tuổi thọ, con người còn mong được sống đẹp lòng Chúa, sống mãi bên Chúa, bởi vì đó mới chính là hạnh phúc đích thực (x. Tv 16,11; 73,25-28). Vào cuối thời Cựu ước, Kinh Thánh đã hứa cho người công chính sẽ được trường sinh (Kn 3,1.10), được phục sinh (2 Mcb 7,9)[3].
Vì thế, con người không chỉ có sự sống theo bản tính tự nhiên (theo nghĩa thể lý), mà còn được kêu gọi vào đời sống thần linh. Theo thánh Phao-lô, con người, nhờ đức tin và phép rửa, đã được tái sinh vào đời sống mới, đời sống của ân sủng nhờ đó họ được trở thành con cái Thiên Chúa. Thực tại ấy đã bắt đầu từ bây giờ và sẽ đạt đến viên mãn trong cõi hằng sống.[4]
Sau khi đã có một vài phác thảo về nguồn gốc sự sống, chúng ta tiếp tục xem xét về cách thức lưu truyền sự sống theo Giáo huấn của Giáo hội Công giáo. Trong Thông điệp Sự sống con người (Humanae Vitae) của Ðức Thánh Cha Phao-lô VI, ngài khẳng định: “Nhiệm vụ lưu truyền sự sống là một nhiệm vụ trọng đại của đôi phối ngẫu, một nhiệm vụ khiến họ trở nên những người tự động tham dự vào trách nhiệm tạo dựng của Ðấng Tạo Hóa, một nhiệm vụ luôn luôn mang lại cho họ nhiều nguồn an ủi, vui sướng lớn lao, song đồng thời thỉnh thoảng cũng gây cho họ không biết bao nhiêu khó khăn, cực lòng”[5]. Như thế ngài khẳng định sự sống nằm trọn trong ơn gọi hôn nhân gia đình và đó cũng là bản chất của ơn gọi này. Bởi lẽ, “Hôn nhân không phải kết quả của ngẫu nhiên hay của các lực lượng tự nhiên, vô ý thức tạo thành. Trái lại, đó là một tổ chức khôn ngoan do Ðấng Tạo Hóa vì tình thương đã thực hiện nơi nhân loại. Ðôi vợ chồng cống hiến chính bản thân mình cho nhau, hòa đồng bản thể của đôi bên lại để hoàn thiện hóa cá nhân mình hầu cộng tác với Thiên Chúa trong việc lưu truyền sự sống và dưỡng dục các đời sống mới.”[6]
Hơn thế nữa, việc lưu truyền sự sống còn là trách nhiệm của hôn nhân và là cũng là trung thành với ý định của Thiên Chúa. Sự sống thể hiện trong trách nhiệm của hôn nhân được Đức Thánh Cha Phao-lô VI nêu rõ: “trong lãnh vực lưu truyền sự sống, họ không có quyền tự do hành động theo sở thích, tự ý lựa chọn những phương pháp cho là chính đáng, trái lại, phải hướng hành động mình theo đúng thánh ý tạo dựng của Thiên Chúa, thánh ý đó được biểu hiện bằng chính bản chất và các hành vi của hôn nhân cũng như bằng các lời giáo huấn liên tục của Giáo hội (Hiến chế mục vụ Vui Mừng Và Hy Vọng – Gaudium et Spes, số 50 và 51).
Tuy nhiên để sống theo Giáo huấn của Giáo hội, con người chắc chắn sẽ gặp phải không ít khó khăn, đặc biệt là trong một xã hội phát triển không ngừng. Vì vậy, Đức Thánh Cha Phao-lô VI đã rất cảm thông và thấu hiểu, ngài nói: “Ta không có ý che giấu các khó khăn, nhiều khi hết sức gai góc, mà các đôi vợ chồng Ki-tô hữu thường xuyên gặp phải: đối với họ cũng như đối với mọi người. Ta muốn nói: “Cửa dẫn vào sự sống thì chật, đường đưa tới sự sống thì hẹp” (Mt 7,14; Dt 12,11). Nhưng Ta tin rằng viễn ảnh của sự sống đó sẽ chiếu sáng đường lối, và nếu họ nhớ rằng “Thế gian này sẽ qua đi” (I C 7,31), họ sẽ đủ can đảm vượt mọi khó khăn để sống một cách khôn ngoan, công chính và sốt sắng trong thời gian hiện tại (Tt 2,12).”[7]
Có thể nói con người được đặt ở trọng tâm trong Học thuyết Xã hội của Giáo hội. Bởi lẽ, “toàn bộ đời sống xã hội đều là sự biểu hiện của một nhân vật chính không thể lầm lẫn được, đó chính là con người.”[8] “Trong những hoàn cảnh cụ thể của lịch sử, con người chính là trọng tâm và linh hồn của giáo huấn xã hội Công giáo.[9] Mà nói về con người thì không thể không nói về sự sống như là nhân phẩm và nhân quyền. Thật vậy, toàn bộ Giáo huấn Xã hội Công giáo chẳng qua chỉ là sự triển khai nguyên tắc: phẩm giá con người bất khả xâm phạm. Trong tất cả những cách diễn tả nhận thức ấy, Giáo hội luôn cố gắng bênh vực phẩm giá con người mỗi khi có toan tính xác định lại hay bóp méo hình ảnh ấy. Giáo hội cũng thường xuyên tố cáo những sự xâm phạm phẩm giá con người”.[10] Cùng với đó, con người cũng góp phần mình vào công cuộc của Giáo hội bằng việc sống trung thành với Giáo hội qua việc gìn giữ và bảo vệ sự sống trong hôn nhân. Để từ đó, đời sống của con người phản chiếu đời sống của Giáo hội, mang sức sống của Giáo hội để thăng tiến đời sống xã hội tới khắp cùng trái đất.
Lm. Giu-se Phạm Minh Triệu
Trích “Nội san Nhà Chung”, Số 3, tháng 4/2023
[1] Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, NXB Tôn giáo, số 108.
[2] Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, NXB Tôn giáo, số 109.
[3] Phan Tấn Thành, Sự sống và Giáo huấn của Giáo Hội Công giáo.
[4] Phan Tấn Thành, Sự sống và Giáo huấn của Giáo Hội Công giáo.
[5] Thông Ðiệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae) của Ðức Thánh Cha Phao-lô VI, 25 tháng 7 năm 1968, số 1.
[6] Thông Ðiệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae) của Ðức Thánh Cha Phao-lô VI, 25 Tháng 7 năm 1968, số 8.
[7] Thông Ðiệp Sự sống con người (Humanae Vitae) của Ðức Thánh Cha Phao-lô VI, 25 tháng 7 năm 1968, số 25.
[8] Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, NXB Tôn giáo, số 106.
[9] Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, NXB Tôn giáo, số 107.
[10] Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, NXB Tôn giáo, số 576.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn